Nhờ phát triển kinh tế vườn, nhiều địa phương đã hình thành các vùng thâm canh, chuyên canh, bước đầu mang lại giá trị kinh tế cao.
Tuy nhiên, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm từ vườn hiện chưa chặt chẽ, nông dân chưa được đào tạo và hướng dẫn đầy đủ.
Hội Làm vườn và Trung tâm Khuyến nông Quốc tham quan mô hình trồng cam mang lại hiệu quả cao tại gia đình anh Hoàng Quyết Thắng xã Vĩnh Hảo, Bắc Quang (Hà Giang).
Nhiều lợi thế
Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Hồng, Phó chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, kinh tế vườn đóng vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta. Tại nhiều địa phương, nghề vườn đem lại 50-70% thu nhập của kinh tế hộ. Kinh tế vườn góp phần đáng kể nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, đất đai, bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái, là nhân tố phát triển nông nghiệp bền vững.
Đã hình thành nhiều mô hình đa dạng, phù hợp với điều kiện của từng địa phương như mô hình vườn - ao - chuồng (VAC), vườn - ao - chuồng - rừng (VACR), VAC - biogas, vườn hữu cơ, vườn du lịch sinh thái… sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa chất lượng cao và an toàn, gắn với tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Giá trị từ các sản phẩm của kinh tế vườn tăng nhanh trong những năm gần đây. Cụ thể, năm 2015, xuất khẩu rau quả của Việt Nam cán mốc 1 tỷ USD; năm 2016, con số này đạt 2 tỷ USD; năm 2017 đạt hơn 3,5 tỷ USD. Trong 9 tháng đầu năm 2018, giá trị xuất khẩu rau quả đạt 3,1 tỷ USD.
Hiện nay, rau quả của Việt Nam được xuất khẩu đến trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nhiều chuyên gia cho rằng, kim ngạnh xuất khẩu rau quả của Việt Nam có thể đạt 10 tỷ USD trong tương lai không xa.
Việc Việt Nam ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương với nhiều nước khác trên thế giới cũng đã và đang giúp mở cửa thị trường cho nông sản Việt, đặc biệt là các sản phẩm kinh tế vườn vốn là thế mạnh của nông nghiệp nước ta. Không những thế, hơn 90 triệu dân trong nước với nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng luôn là thị trường tiêu thụ lớn đối với sản phẩm kinh tế vườn.
Làm giàu từ kinh tế vườn
Từ trồng cam mà hàng trăm hộ dân ở Hà Giang đã thoát nghèo vươn lên làm giàu. Điển hình như hộ anh Hoàng Quyết Thắng, ở xã Vĩnh Hảo (Bắc Quang). Với 8ha cam, sản lượng ước đạt trên 120 tấn/năm, thu nhập bình quân đạt 1,2 tỷ đồng/năm, trừ chi phí, gia đình anh thu lãi hơn 800 triệu đồng.
Trao đổi với phóng viên, ông Hoàng Văn Nhiên, Bí thư Đảng ủy xã Vĩnh Hảo, cho biết, hiện xã có 960ha cam, sản lượng khoảng 9.000 tấn. 100% số hộ trồng cam trong xã cam kết sản suất theo tiêu chuẩn VietGAP. Đầu vụ 2018, cam được bán với giá 8.000 đồng/kg, nhà vườn thu lãi 3.000 đồng/kg; cuối vụ có thể lên tới 30.000 đồng/kg. Từ trồng cam, hàng trăm hộ dân trong xã có thu nhập trên 100 triệu đồng/năm, hàng chục hộ có thu trên 1 tỷ đồng/năm, cá biệt có hộ thu nhập đến 3-4 tỷ đồng/năm.
Hà Giang hiện có trên 8.700ha cam (6.729ha cam sành, 1.988ha cam Vinh và số giống cam khác), trong đó, có 5.189ha cam cho thu hoạch, sản lượng ước đạt 63.000 tấn. Cây cam mang lại giá trị ước trên 600 tỷ đồng.
Tại Tuyên Quang, diện tích cam đạt 8.336ha, hàng năm đưa ra thị trường trên 70.000 tấn quả; thu nhập bình quân đạt 114,3 triệu đồng/ha. Từ phát triển cây có múi mà hàng trăm gia đình có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm, nhiều hộ trở thành triệu phú, tỷ phú.
Ông Trần Văn Khởi, quyền Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, kinh tế vườn đóng vai trò rất quan trọng trong kinh tế hộ. Ví dụ, ở tỉnh Hòa Bình, trung bình mỗi hộ có 1ha cam, trên miền núi phía Bắc có thể nhiều hơn. Với năng suất 40 - 50 tấn/ha, cam có thương hiệu, có chỉ dẫn địa lý thì người trồng có thu nhập tương đối ổn định, nhiều hộ đã vươn lên làm giàu.
Liên kết chưa chặt chẽ
Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Đức Vinh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Giang, cho biết, liên kết phát tiển kinh tế vườn tại Hà Giang làm chưa tốt. Bởi, rất ít doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nhất là nông nghiệp hàng hóa. Hướng đi của Hà Giang bây giờ là các tổ sản xuất, các hợp tác xã trồng cam tự vươn lên, tự liên kết với nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Chủ tịch UBND huyện Bắc Quang Nguyễn Trung Hiếu cho rằng, liên kết là khâu khó nhất, là nút thắt lớn nhất trong phát triển kinh tế vườn. Hiện, sản phẩm cam tiếp cận thị trường gặp rất nhiều khó khăn. Những năm qua, huyện đã đẩy mạnh công tác giới thiệu, xúc tiến, quảng bá sản phẩm cam ra thị trường. Đến nay, vẫn chưa có đầu ra ổn định cho cam Bắc Quang
Theo ông Hoàng Quyết Thắng, Giám đốc HTX sản xuất cam VietGAP xã Vĩnh Hảo (Bắc Quang), HTX có 86ha cam, năng suất đạt 30 tấn/ha, sản lượng năm 2018 ước đạt 2.580 tấn. Nhưng chỉ có 1-2% sản lượng vào được siêu thị, phần còn lại do xã viên tự tiêu thụ.
Ông Nguyễn Tiến Hưng, Giám đốc Công ty Thực phẩm sạch Biggreen Việt Nam, cho biết, khó khăn nhất trong vấn đề liên kết với nông dân là chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là vấn đề khó nhất, là mấu chốt trong mối liên kết.
Còn ông Nguyễn Văn Tự, Chủ tịch Hội Làm vườn tỉnh Hà Giang, cho rằng, hiện liên kết phát triển sản xuất cam của tỉnh Hà Giang còn nhiều hạn chế. Cụ thể, hiện có khoảng 3.500 hộ đang sản xuất đơn lẻ, không tham gia vào HTX, tổ hợp tác, hiệp hội nên không có sự tương đương về tiêu chuẩn kỹ thuật, chăm sóc, tạo ra sản phẩm có chất lượng.
“Chưa thành lập được nhiều HTX trồng cam, chủ yếu là tổ hợp tác, các tổ chức này hoạt động chưa phát huy được vai trò, chức năng của mình dẫn đến mối liên kết giữa thành viên với tổ hợp tác chưa chặt chẽ. Những năm gần đây, sản phẩm cam sành Hà Giang đã được quảng bá, giới thiệu sản phẩm, chắp nối tiêu thụ. Nhưng số lượng cam được ký hợp đồng tiêu thụ chưa nhiều, chưa mở rộng được thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, nhiều nhà vườn chưa được đào tạo nghề, chưa được hướng dẫn cụ thể để tham gia chuỗi sản xuất”, ông Tự nói.
Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
Theo ông Nguyễn Trung Hiếu, thời gian tới, huyện tập trung giữ nguyên diện tích cam, đặc biệt là cam sành, trên cơ sở đó áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất, từng bước năng cao chất lượng, thương hiệu sản phẩm. Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá, giới thiệu sản phẩm ở thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.
Ông Nguyễn Đức Vinh cho biết, để tăng cường liên kết phát triển kinh tế vườn, trước tiên phải làm tốt truyền thông, có như vậy người tiêu dùng mới biết mình có gì, chất lượng thế nào để lựa chọn mua. Tiếp đó, mời gọi doanh nghiệp đầu tư vào kinh tế vườn, như vậy mới nâng cao hiệu quả kinh tế. Cùng với đó, tăng cường đào tạo và hướng dẫn để thay đổi nhận thức của người dân về sản xuất hàng hóa, nhất là đối với cam, cây có múi trên địa bàn. Nếu chúng ta sản xuất hàng hóa mà không tôn trọng quy luật kinh tế thị trường thì sẽ thất bại. Thị trường cần gì thì chúng ta phải làm cái đó, có như vậy mới thành công.
“Hà Giang có trên 8.700ha cam, chúng ta phải biết nguồn cung và nhu cầu tiêu dùng trên địa bàn hiện nay. Do vậy, bà con phải chăm sóc, đi sâu vào nâng cao chất lượng. Tỉnh sẽ tạo điều kiện cho các hộ trồng cam vay vốn để cải tạo, thâm canh chứ không cho vay để trồng mới. Hướng của tỉnh là đi vào chất lượng chứ không theo số lượng, có như vậy thì sản phẩm mới đủ sức cạnh tranh trên thị trường”, ông Vinh nhấn mạnh.
TS. Trần Văn Khởi, quyền Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, cho biết, liên kết sản xuất với tiêu thụ trong kinh tế vườn hiện còn yếu, lỏng lẻo, chuỗi giá trị còn ngắn, bấp bênh nên vẫn có những rủi ro, thu nhập thiếu ổn định.
Về giải pháp phát triển kinh tế vườn, TS. Khởi nhấn mạnh: Cần tăng cường hỗ trợ hình thành các tổ chức sản xuất của người nông dân, hình thành các tổ hợp tác, hợp tác xã, liên doanh hợp tác xã, hình thành doanh nghiệp nông nghiệp; đẩy mạnh công tác khuyến nông, cung cấp thông tin của các tổ chức, Hội Làm vườn...; chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nhà vườn, phổ biến công nghệ mới, sau thu hoạch để giảm chi phí lao động và giảm chi phí vật tư sản xuất, sản xuất hàng hóa an toàn, chất lượng tốt; nâng cao năng lực sản xuất của nông dân thông qua tập huấn, tham quan, xây dựng mô hình…
Để liên kết phát triển kinh tế vườn mang lại hiệu quả, vai trò của chính quyền địa phương rất quan trọng, là đơn vị chứng kiến, kết nối HTX và doanh nghiệp, có như vậy, doanh nghiệp mới làm bài bản và liên kết bền vững. Địa phương phải là bà đỡ hỗ trợ cho hình thành tổ chức của nông dân, cần nhất là hình thành HTX kiểu mới.
Cùng với đó, chúng ta phải tìm doanh nghiệp có tầm, có đủ năng lực để kết nối với nông dân. Ngay bản thân bà con phải tạo ra liên kết ngang, đưa ra quy chế, quy ước với nhau, sản xuất theo tiêu chuẩn của doanh nghiệp thì doanh nghiệp mới thu mua. Trên cơ sở liên kết ngang, liên kết dọc, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân, có như vậy, liên kết trong kinh tế vườn mới thu được thắng lợi.
Với thế mạnh của các địa phương, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc, nếu được các bộ, ngành quan tâm, sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền địa phương, người dân đẩy mạnh sản xuất theo chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm, thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia vào sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tin rằng, một thời gian không xa, liên kết trong phát triển kinh tế vườn sẽ đưa kim ngạnh xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt 10 tỷ USD.
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.
Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…