Hội đồng thẩm định làng nghề tỉnh Nghệ An vừa trình UBND tỉnh công nhận 4/5 làng nghề được đăng ký theo kế hoạch năm 2021.
Theo thông tin từ Chi cục Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Nghệ An: Trên cơ sở kiểm tra, Hội đồng thẩm định làng nghề tỉnh đã họp, bỏ phiếu và thống nhất trình UBND tỉnh công nhận 4/5 làng nghề được đăng ký theo kế hoạch năm 2021.
Cụ thể, có 4 làng nghề được công nhận năm 2021 gồm: làng nghề sản xuất muối xã An Hòa; làng nghề sản xuất và chế biến rễ hương, tăm hương xã Quỳnh Thắng (huyện Quỳnh Lưu); làng nghề dệt thổ cẩm xã Na Loi, huyện Kỳ Sơn và làng nghề sản xuất rượu truyền thống men lá xã Đôn Phục (Con Cuông).
So với kế hoạch đăng ký và trình từ đầu năm, làng nghề sản xuất rượu cần truyền thống tại xã Mậu Đức phải dừng lại vì chưa đủ điều kiện đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Như vậy, đến thời điểm này, toàn tỉnh có 177 làng nghề được UBND tỉnh công nhận tại 19/21 huyện, thành, thị của tỉnh; còn 2 huyện Tương Dương và Quỳ Hợp chưa có làng nghề nào được công nhận.
Phần lớn các làng nghề hoạt động tốt hoặc khá là ngành nghề chế biến bảo quản nông lâm, thủy sản nhu cầu và đầu ra tương đối lớn như nghề làm nước mắm, chế biến cá khô, đồ hải sản đông lạnh. Bên cạnh đó là nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, ngành nghề xử lý chế biến nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất ngành nghề nông thôn, sản xuất đồ gỗ như hương trầm, tăm hương, đồ gỗ tiêu dùng hoặc mỹ nghệ, dệt may, sợi, cơ khí nhỏ; nghề sinh vật cảnh và sản xuất muối.
Ông Trần Đức Đạt - Trưởng phòng Phát triển nông thôn và cơ giới, Chi cục Phát triển Nông thôn cho biết, trước đây làng nghề có 2 cấp độ công nhận là làng và làng có nghề nhưng nay theo Nghị định số 52/CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn chỉ còn danh hiệu làng nghề do UBND tỉnh công nhận. Do nguồn lực hỗ trợ hạn chế nên việc xem xét công nhận cũng chặt chẽ hơn. Mặc dù đóng góp của làng nghề còn khiêm tốn so với các lĩnh vực khác nhưng với 114 làng nghề đang hoạt động tốt và khá của tỉnh, mỗi năm các làng nghề vẫn tạo ra giá trị sản xuất là 2.266 tỷ đồng, đóng góp 2,67% tổng sản phẩm GRDP trên địa bàn và tạo việc làm cho nhiều lao động nông thôn.
Trong hơn 40 năm qua, kể từ khi thực hiện Khoán 100 (Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp), rồi Khoán 10 (Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.