Cơ quan chức năng tỉnh Thừa Thiên - Huế đã chỉ ra nhiều vi phạm trong khai thác khoáng sản tại khu vực dự án Nhà máy thủy điện A Lin B1 (huyện A Lưới).
Tìm đến khu vực khai thác than nằm trên địa phận thôn Lái. Tại đây, 2 chiếc máy xúc cỡ lớn cùng hàng chục chiếc xe tải đang hoạt động. Tiếng máy móc, khói bụi của than khiến chúng tôi hoàn toàn bất ngờ khi quay lại thăm một làng quê từng rất yên bình, nằm cách xa thành phố Bắc Giang gần 100km.
"Ở đây trữ lượng than nhiều lắm. Từ nhiều năm trước, họ đã khai thác ở An Bá và các xã lân cận. Từ đầu năm đến nay, chủ bãi than mua đất lâm nghiệp trồng keo của người dân sau đó chặt cây đi để đào than phía dưới. Có nhà được họ trả cho vài trăm triệu đồng/đồi keo nên nhiều người đồng ý bán dù biết trái quy định của pháp luật", anh H, một người dân địa phương cho hay.
Qua đó, nơi đây như một "đại công trường" khai thác than. Nhiều quả đồi cây trước kia cao sừng sững thì giờ đây đã bị máy xúc san phẳng, đào sâu xuống lòng đất để khai thác than lộ thiên. Những lời nói của anh H như chưa thể lột tả được hết hiện trường nên anh dẫn chúng tôi ra thăm những con suối, cánh đồng lúa bị ảnh hưởng do nước thải ở bãi than. "Năng suất giờ kém lắm, 1 sào chỉ được hơn tạ lúa, có nhà còn mất trắng, chẳng thu hoạch được gì. Môi trường bị hủy hoại nghiêm trọng, nhiều hộ dân chán chường bỏ đất không muốn canh tác", anh H than thở.
Còn ông T, một cao niên thôn Vá (xã An Bá) ngậm ngùi khi chúng tôi hỏi chuyện. Mấy năm trước, ông thường sang thôn Lái nhặt củi ở đồi keo rồi đi săn bắt chim. Ngày hè, ông thường đưa các cháu ra suối bắt tôm, bắt cá. "Giờ thì tan hoang hết rồi. Chúng tôi lên đồi keo còn phải xin phép những người khai thác than, trẻ con sau giờ học cũng chẳng dám ra ngoài. Con đường độc đạo nối các thôn với nhau bị xe tải chở than hạng nặng tàn phá. Những ngôi nhà ven đường bị nứt toác…", ông T xót xa.
Từ "đại công trường" khai thác, chúng tôi theo dấu những chiếc xe tải chở đầy than để trần hoặc phủ bạt qua loa. Xe tải chở than chạy với tốc độ cao ngay trong khu dân cư và liên tục bóp còi để báo hiệu những nhóm học sinh đi xe đạp tránh đường. Đi khoảng 5km, các xe đến điểm tập kết nằm trên đường tỉnh lộ, rất gần UBND xã An Vá. Theo lời người dân địa phương, buổi sáng nhóm người khai thác và vận chuyển than đi từ 6h. Họ làm liên tục đến chập tối thì nghỉ. Nhóm người này có khoảng chục xe tải, mỗi xe chạy được 16 chuyến/ngày. Tính sơ sơ, mỗi ngày gần 200 lượt xe tải chở than chạy qua khu dân cư.
Anh La Văn Thái, Trưởng thôn Lái tâm sự với chúng tôi rằng, cuộc sống của người dân nơi đây đang bị đảo lộn và ảnh hưởng nghiêm trọng từ quá trình khai thác, vận chuyển than. Chưa kể những khối núi đất sau khi được bới lên để đào than có thể đổ sập xuống khi bão lũ về, vùi lấp thôn làng nhỏ bé…
Tại buổi làm việc với PV Báo chí, ông Nguyễn Thanh Tùng, Chủ tịch UBND xã An Bá cho biết: "Theo hồ sơ, khu vực khai thác than ở thôn Lái của Công ty CP Tập đoàn khoáng sản Á Cường. Thế nhưng mỗi đợt lại có một người phụ trách khai thác khác nhau. Trong đợt kiểm tra hồi tháng 9/2019, chúng tôi phát hiện một nhóm người với nhiều máy móc đang khai thác than tại khu vực đất lâm nghiệp của các hộ gia đình. Khi làm việc thì hai bên bảo có thỏa thuận thuê đất bằng giấy viết tay. Ngoài ra, việc khai thác cũng làm đất đá thải và nước than tràn vào ruộng gây ảnh hưởng đến hoa màu của nhân dân. Chúng tôi cũng đã báo cáo lên Phòng TN&MT và UBND huyện Sơn Động rồi, chứ không phải làm ngơ đâu".
Ông Hoàng Văn Hoan, Phó Chủ tịch UBND xã An Bá cũng cho biết: "Về thủ tục, họ khai thác như thế là không đảm bảo. Nhưng ở góc độ địa phương, chúng tôi cũng không biết được họ khai thác có đúng chỉ giới không. Còn theo giấy phép thì đến ngày 21/11/2019 là hết hạn khai thác. Nhà tôi cũng ở xã An Vá nên ngày nào cũng chứng kiến cảnh xe tải chở than gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến giao thông và tuổi thọ của đường".
"Họ đang xin các cơ quan chức năng gia hạn giấy phép khai thác than. Nhưng nói thật, chúng tôi mong các cấp có thẩm quyền đừng gia hạn. Họ khai thác kiểu này chỉ "vẽ" thêm phiền cho địa phương, tạo ra nhiều hệ lụy chứ chẳng đóng góp được gì. Người dân kêu nhiều, chúng tôi cũng "chán" lắm nhưng không biết xử lý thế nào?", ông Nguyễn Thanh Tùng, Chủ tịch UBND xã tiếp lời.
Lạc Sơn – Hòa Bình: Tồn tại vấn nạn khai thác vàng trái phép
Theo người dân xóm Khướng, xã Tự Do, huyện Lạc Sơn (Hòa Bình) cho biết, bắt đầu từ tháng 7 năm 2010, gia đình ông Bùi Chí Hưởng, trú tại thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn lên xã Tự Do đề xuất với UBND xã xin được thuê khu vực hợp lưu ba dòng suối tại khu vực xóm Khướng để phát triển trang trại gồm chăn nuôi gia súc gia cầm và nuôi trồng thủy sản.
Xét thấy đơn đề nghị của ông Bùi Chí Hưởng có thể thúc đẩy phát triển kinh tế gia đình cũng như kinh tế địa phương nên UBND xã đã đồng ý để ông Hưởng tự thỏa thuận với những hộ dân có đất ở khu vực trên. Tuy nhiên, sau khi được sự đồng thuận của chính quyền địa phương và người dân, ông Hưởng đã không phát triển trang trại và nuôi trồng thủy sản như cam kết mà đã huy động nhận lực và phương tiện đến để tiến hành đào đãi vàng một cách trái phép trên nền diện tích lớn bất chấp ngày đêm.
Một thời gian sau, nắm bắt được việc làm trái phép, đi ngược cam kết ban đầu, UBND xã Tự Do đã lập tổ công tác xác minh và Chủ tịch UBND xã thời điểm đó là ông Bùi Tiến Nhinh đã có văn bản kết luận: “Vị trí đào bới thuộc thửa đất số 96, tờ bản đồ 318 diện tích khoảng 5000m2. Đây là khu vực hợp lưu của ba con suối (suối cạn), mùa mưa có lưu lượng nước chảy qua cao, dòng chảy xiết, việc khai thác trực tiếp làm ảnh hưởng đến dòng chảy, nguy cơ làm biến đổi dòng, gây nguy cơ sạt lở cao. Qua xác minh cho thấy mục đích đào ao của ông Hưởng là không có cơ sở, mục đích chính là đào đãi vàng. UBND xã Tự Do đã yêu cầu dừng việc khai thác nhưng ông Bùi Chí Hưởng không chấp hành mà còn mở rộng diện tích, gây xôn xao dư luận, làm ảnh hưởng đến tài nguyên đất của xã.”
Tiếp đó, UBND xã Tự Do cũng đã có văn bản báo cáo gửi lên UBND huyện Lạc Sơn, Phòng Tài nguyên và Môi trường. Đáng nói là sau kết luận của UBND xã, ông Hưởng vẫn huy động nhân lực và phương tiện tiếp tục việc khai thác vàng và ngày một mở rộng diện tích. Vụ việc ngang nhiên này diễn ra trong 6 năm tiếp theo khiến không ít tài nguyên khoáng sản bị đánh cắp, đồng thời sau nhiều năm cày xới bằng máy móc, môi trường sống của người dân, đất hoa màu canh tác, hoàn lưu dòng chảy đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Ông Bùi Ngọc Thiên, Chủ tịch UBND xã Tự Do cho biết: “Suối Khướng có chiều dài 12km chạy qua 3 thôn của xã Tự Do. Giữa năm 2010 ông Bùi Chí Hưởng có lên đề xuất với xã muốn thuê để phát triển du lịch, trang trại, nuôi trồng thủy sản”.
Ông Thiên cũng xác nhận: “Sau khi nhân dân có ý kiến phản ánh, chúng tôi xác minh thì được biết việc khai thác vàng là có thật. Ông Hưởng sử dụng 6,7 công nhân có máy xúc, máy bơm hút và các phương tiện để đào đãi vàng. Chúng tôi đã báo cáo lên Ủy ban huyện, huyện cũng đã về xác minh lập biên bản yêu cầu ông Hưởng dừng ngay việc khai thác nhưng không hiệu quả. Hàng chục biên bản yêu cầu dừng ngay việc khai thác trái phép nhưng với mức độ lớn, phương tiện nhiều nên với chức năng quyền hạn của mình chúng tôi cũng chỉ làm được đến như vậy”.
Phải đến năm 2016 thì công việc khai thác trái phép của ông Hưởng mới dừng lại nhưng cảnh quan môi trường đã bị xâm hại nghiêm trọng, hệ lụy nặng nề về môi trường đến nay chưa được khắc phục.
“Đúng là việc khai thác đã tác động đến cảnh quan và môi trường. Trước dòng suối vốn đẹp nay đã có dấu hiệu sụt lở, dòng chảy bị mở rộng xâm hại vào đất hoa màu của người dân. Nguy cơ sẽ sạt lở và ảnh hưởng tới đất canh tác. Trước nghề nuôi và đánh bắt cá của người dân rất phát triển giờ không làm được nữa do dầu luyn thải ra gây ô nhiễm.”- Ông Bùi Văn Tuấn – cán bộ địa chính xã Tự Do cho biết.
Vì sao hàng chục văn bản của chính quyền yêu cầu ông Hưởng dừng khai thác vàng trái phép vào thời điểm đó không có tác dụng? Liệu có điều gì bất thường? Ai là người phải chịu trách nhiệm và khắc phục những hậu quả gây ra cho môi trường, điều kiện canh tác của người dân? Đó là những bức xúc, những câu khắc khoải của người dân xóm Khướng suốt nhiều năm nay nhưng chưa có câu trả lời.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đỗ Đức Duy khẳng định, dù thực hiện theo Luật Đất đai hay theo cơ chế thí điểm của Nghị quyết về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất, tất cả các dự án đó đều phải tuân thủ quy hoạch, bảo đảm việc giữ ổn định 3,5 triệu ha đất lúa, bảo đảm độ che phủ rừng...
Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản sẽ hiệu lực từ ngày 1/8, sớm 5 tháng so với thời điểm đã được Quốc hội quyết định trước đó (1/1/2025), sẽ giúp khơi thông nguồn lực đất đai, tạo điều kiện cho nền kinh tế đất nước phát triển và đảm bảo các chính sách an sinh xã hội cho người dân.