Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ sáu, ngày 26 tháng 4 năm 2024  
Thứ ba, ngày 5 tháng 6 năm 2018 | 21:27

Khẩn trương xây dựng đề án dự báo cung - cầu lao động

Hôm nay (5/6) Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung trả lời chất vấn trước Quốc hội.

Kết luận phiên chất vấn Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân  cho biết, có 51 đại biểu đặt câu hỏi, 18 đại biểu tranh luận. Theo Chủ tịch Quốc hội, phiên chất vấn diễn ra sôi nổi, thẳng thắn, trách nhiệm. Bộ trưởng LĐTBXH đã nắm rất chắc vấn đề, trả lời rõ ràng, khúc triết, đưa ra nhiều giải pháp có lộ trình thực hiện rõ ràng.

Nhiều chuyển biến tích cực

Theo Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, lao động, việc làm và trẻ em là những vấn đề liên quan trực tiếp đến cuộc sống người dân và xã hội, nên luôn được sự quan tâm của các đại biểu Quốc hội, cử tri và nhân dân.

Thời gian qua, công tác của bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực, như thị trường việc làm, chất lượng đào tạo nghề có bước phát triển, số lượng người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài tăng, công tác chăm sóc bảo vệ trẻ em được chú trọng.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, còn không ít những tồn tại, hạn chế, bất cập như nhiều đại biểu đã nêu câu hỏi chất vấn, chúng ta cần phải có những giải pháp thiết thực để tạo sự chuyển biến tích cực trong cả trước mắt và lâu dài. Đây là lĩnh vực có nội dung rộng liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, một số nội dung cần tiếp tục làm rõ nên đã có nhiều đại biểu Quốc hội tham gia tranh luận.

Chủ tịch Quốc hội, đề nghị Chính phủ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, các bộ, ngành liên quan tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, chỉ đạo quyết liệt, thực hiện các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém trong đó tập trung vào một số vấn đề sau đây:

Khẩn trương xây dựng đề án dự báo cung - cầu lao động

Tiếp tục rà soát để hoàn thiện chính sách pháp luật có liên quan đến lao động, việc làm, giáo dục nghề nghiệp, đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, nâng cao chất lượng phân tích, dự báo thị trường lao động, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ giữa các vùng kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, tăng cường kết nối cung - cầu lao động qua hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm. Khẩn trương xây dựng đề án dự báo cung - cầu lao động.

Có giải pháp để xử lý sự mất cân đối trong cơ cấu đào tạo, nâng cao hiệu quả công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông. Xây dựng và triển khai đề án thanh niên, sinh viên khởi nghiệp sáng tạo. Tập trung giải quyết việc làm cho số đối tượng sinh viên sau khi ra trường chưa có việc làm, có biện pháp bảo vệ quyền lợi của người lao động trong khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chú trọng vấn đề việc làm cho lao động nông thôn. Có lộ trình, giải pháp giảm tỷ lệ thất nghiệp, xây dựng, triển khai đề án giải quyết việc làm trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0.

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nghề nghiệp

Đổi mới căn bản và toàn diện trong giáo dục nghề nghiệp, chú trọng chất lượng, đào tạo kỹ năng, năng lực thực hành để nâng cao năng suất lao động. Giáo dục nghề nghiệp gắn với giải quyết việc làm và việc làm bền vững, đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp thông qua việc hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chuẩn hóa các điều kiện giáo dục nghề nghiệp, trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đảm bảo đến năm 2021 giảm 10% cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, tiếp tục hoàn thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm phân bố hợp lý giữa các vùng, miền, ngành, nghề và trình độ đào tạo.

Quan tâm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp. Mở rộng hệ thống đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo nghề, ngoại ngữ cho lao động xuất khẩu giữa các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và quy định tiêu chuẩn nghề theo từng thị trường, kiểm định chất lượng lao động có nghề, trước khi đi làm việc ở nước ngoài.

Tăng cường gắn kết cơ sở đào tạo nghề với doanh nghiệp, thị trường lao động, mở rộng hình thức dạy nghề theo hợp đồng đặt hàng đào tạo giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp, có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tích cực tham gia vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp, huy động các nguồn lực đầu tư, các điều kiện để bảo đảm chất lượng đào tạo, đổi mới chương trình, giáo trình đào tạo để chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng cho phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ chất lượng cao.

Rà soát đánh giá tổng thể hoạt động xuất khẩu lao động

Chủ tịch Quốc hội yêu cầu rà soát, đánh giá tổng thể hoạt động đưa lao động Việt Nam đi nước ngoài làm việc theo hợp đồng, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường đàm phán, ký kết các thỏa thuận hợp tác lao động với các nước có nhu cầu lao động, hướng dẫn, hỗ trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường lao động.

Rà soát thủ tục hành chính, tăng cường công khai, minh bạch trong việc cấp phép cho doanh nghiệp đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài.

Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân lợi dụng việc đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài để trục lợi. Phối hợp với các cơ quan có các giải pháp phù hợp để quản lý, bảo vệ lao động Việt Nam ở nước ngoài, hạn chế tối đa việc lợi dụng đi lao động ở nước ngoài để trốn ở lại nước sở tại trái pháp luật.

Xử lý nghiêm các hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em

Theo Chủ tịch Quốc hội, thời gian tới cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện chính sách pháp luật và tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, tích cực truyền thông, đề cao trách nhiệm giáo dục của gia đình, của nhà trường, của cộng đồng đối với trẻ em về các kiến thức, kỹ năng phòng ngừa các hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em.

Kịp thời phát hiện, tố giác, xử lý nghiêm các hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em, xây dựng đề án huy động nguồn lực xã hội để hỗ trợ, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, nhất là trẻ em vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Thực hiện tốt phối hợp liên ngành về thực hiện quyền trẻ em, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của Ủy ban Quốc gia quyền trẻ em.

Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

Cần quy trình điều tra, xét xử đặc biệt

Gải trình trước Quốc hội, Bộ trưởng Công an Tô Lâm cho biết, trong số xâm hại, bạo hành trẻ em trong 5 tháng đầu năm 2018 thì xâm hại tình dục chiếm 84%. Xâm hại tình dục trẻ em diễn biến rất phức tạp, không chỉ trẻ em gái, trẻ em trai cũng bị xâm hại. Có cả những đối tượng từ nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện hành vi phạm tội...

Nguyên nhân của tình hình trên là do: Việc tố cáo trình báo tội phạm xâm hại trẻ em thường chậm, gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý tội phạm; vụ việc có tính nhạy cảm nên người thân thường dấu kín, lo ngại nạn nhân bị ảnh hưởng tâm lý nên không hợp tác với cơ quan điều tra; hầu hết các vụ không có nhân chứng trực tiếp, nạn nhân còn nhỏ tuổi, hoảng loạn tâm lý nên khai báo không chính xác, hoặc khai báo không thống nhất,...

Về giải pháp, trong thời gian tới, Bộ Công an sẽ tập trung tăng cường công tác tuyên truyền trong nhân dân về phòng chống xâm hại trẻ em, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan thực hiện các hiệu quả giải pháp tuyên truyền, giáo dục; đổi mới việc tiếp nhận thông tin, điều tra, xét xử tội phạm; cần có quy trình điều tra, xét xử đặc biệt đối với loại tội phạm xâm hại trẻ em, theo đó Ủy ban Tư pháp sẽ đứng ra làm trọng tài, tạo điều kiện cho việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trong lĩnh vực này theo quy trình đặc biệt chứ không thể theo trình tự thông thường; bên cạnh đó, Bộ cũng tập trung hướng dẫn, đào tạo đội ngũ điều tra viên; tăng cường hợp tác quốc tế ngăn chặn đối tượng từ nước ngoài vào Việt Nam phạm tội... 

Dư luận không lên án, lãnh đạo không vào cuộc thì thế nào?

Các đại biểu Phạm Thị Minh Hiền (Phú Yên), Lê Thị Nga (Thái Nguyên) tiếp tục tranh luận với giải trình của Viện trưởng VKSNDTC và Chánh án TANDTC.

Là người thường xuyên được tiếp cận với các trẻ em bị xâm hại tình dục, đại biểu Phạm Thị Minh Hiền nhận thấy, Điều 146 của Bộ luật Hình sự hiện hành quy định các hành vi của xâm hại tình dục gồm các tội cưỡng dâm, hiếp dâm, giao cấu và dâm ô nhưng lại không quy định thế nào là hành vi dâm ô, cũng như các hành vi quan hệ tình dục khác. Do đó, quá trình điều tra gặp nhiều vướng mắc trong việc củng cố chứng cứ pháp lý để chuyển sang viện kiểm sát.

Đại biểu đề nghị, cơ quan điều tra, mà đại diện là Bộ trưởng Bộ Công an chia sẻ thông tin cụ thể hơn về vấn đề này vì luật không quy định cụ thể thì không thể ngăn chặn được hành vi dâm ô với trẻ em và chắc chắn sẽ không tạo được rào cản, bảo vệ từ xa cho trẻ đối với các tội liên quan đến xâm hại tình dục, trong đó có hành vi dâm ô.

Đại biểu Lê Thị Nga đồng ý, việc xét xử các vụ việc xâm hại trẻ em có cái khó là chứng minh, nhưng cũng có những vụ không tích cực. Như vụ việc ở Cà Mau, phải khi Thủ tướng Chính phủ có ý kiến, dư luận lên án mới vào cuộc, nhưng khi đó thì cháu bé đã tự tử. Đối với vụ Nguyễn Khắc Thủy phải có Chủ tịch nước có ý kiến và dư luận lên án thì cơ quan điều tra mới tích cực xem xét. Vậy những vụ mà dư luận không lên án, lãnh đạo không vào cuộc thì thế nào? 

Bên cạnh đó, Ủy ban Tư pháp đã đề nghị cơ quan tư pháp phải có quy trình trực tiếp đối với loại tội phạm này về điều tra, truy tố, xử lý tin báo, trực tiếp đối với loại tội phạm xâm hại tình dục.

“Viện trưởng có đưa ra một số thông tư đang soạn đối với thành viên tham gia tố tụng là trẻ em. Nhưng tôi đề nghị, đi sát vào kiến nghị của Ủy ban Tư pháp”, đại biểu Lê Thị Nga yêu cầu.

 

Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

6 tháng truy tố 753 vụ xâm hại trẻ em

Giải trình trước Quốc hội về tình trạng xâm hại trẻ em Viện trưởng VKSNDTC Lê Minh Trí cho biết, đây là vấn đề hết sức gây bức xúc trong xã hội. Trong 6 tháng đầu năm 2018, chúng ta đã khởi tố hơn 701 vụ, truy tố 753 vụ, 805 bị can, đưa ra xét xử gần 648 vụ và 690 bị can

Viện trưởng cho rằng để giải quyết thực trạng này cần phải thực hiện đồng bộ từ quyết tâm của cả hệ thống chính trị.

Trước mắt cần hoàn thiện hệ thống luật pháp để đảm bảo yêu cầu cuộc đấu tranh này không chỉ dừng lại ở quyết tâm mà phải bằng pháp luật, bằng sự phối hợp của các bộ, ban, ngành. Bên cạnh đó, cần xây dựng kỹ năng cho các em ý thức được về việc bị xâm hại. Khi phát hiện sẽ xử lý nghiêm minh trước pháp luật các đối tượng để tạo ra sự răn đe, giáo dục chung.

Viện trưởng VKSNDTC cho rằng 17 cơ quan có liên quan đến việc bảo vệ trẻ em cần phải có sự phối hợp tốt. “Nhạc trưởng” trong việc bảo vệ trẻ em sẽ hành xử thế nào khi phát hiện các vụ việc. Nếu Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân công thì sẽ rõ được trách nhiệm của từng đơn vị như thế nào.

Viện trưởng cho biết thêm, tháng 12/2017, Bộ Công an, VKSNDTC và một số bộ ngành đã phối hợp ban hành thông tư liên tịch về việc phối hợp trong xử lý các vụ xâm hại trẻ em; đang hoàn thiện dự thảo thông tư liên tịch xử lý đối tượng xâm hại trẻ em dưới 18 tuổi;...

 

Ảnh VGP/Nhật Bắc

 


Khó khăn điều tra, thu thập chứng cứ

Liên quan đến vấn đề này, Chánh án TANTC Nguyễn Hòa Bình cho biết, theo thống kê 5 năm, từ 2013 đến 2017, tòa án đã giải quyết hơn 8100 các vụ án xâm hại tình dục trẻ em, bao gồm 5 tội danh khác nhau. 

Theo Chánh án TANDTC, những vụ việc liên quan đến xâm hại trẻ em không gây khó khăn trong quá trình xét xử nhưng khó khăn trong quá trình điều tra.

Bởi phần lớn các vụ việc truy xét nhưng không có người làm chứng, thời gian xảy ra đến khi phát hiện thường là đã xa; gia đình nạn nhân ngại khai báo, thậm chí con che giấu, từ chối giám định, không hợp tác với cơ quan điều tra. Đây là những việc rất khó khăn trong quá trình điều tra vụ án.

Về giải pháp, Chánh án TANDTC cho rằng các cơ quan tố tụng đã phối hợp rất chặt chẽ, đưa được hơn 90% các vụ việc đưa ra xét xử đúng người đúng tội. Tỷ lệ trả, hủy sửa, trả hồ sơ đòi hỏi phải hạ xuống theo yêu cầu của Quốc hội, mong muốn của cử tri.

Về giải pháp triển khai tổ chức, TANDTC vừa ban hành thông tư yêu cầu tòa án địa phương, trong đó có các tòa án cấp huyện đủ điều kiện hình thành tòa chuyên trách về hôn nhân gia đình và vị thành niên. Ngoài ra, TANDTC đã áp dụng phòng xét xử thân thiện dành cho trẻ vị thành niên ở TPHCM và đang nhân rộng ra cả nước. Những nạn nhân có thể không phải ra tòa mà chỉ thẩm vấn qua micro để đảm bảo về mặt tâm lý.

Tăng cường đấu tranh tội phạm bạo lực, xâm hại trẻ em

Tiếp tục trả lời chất vấn của các ĐBQH về giải pháp khắc phục tình trạng bạo hành, xâm hại, đặc biệt là xâm hại tình dục trẻ em, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho rằng, phải từ phân loại để tìm ra giải pháp. Hiện nay, tỷ lệ 59,9% số người có hành vi xâm hại trẻ em là người thân, người quen. Đây chính là đối tượng thời gian tới phải quan tâm hơn để ngăn chặn tình trạng này. 

Các giải pháp cụ thể, Bộ trưởng nêu rõ: Trước hết phải tăng cường quản lý Nhà nước, đặc biệt trong luật phải quy định rõ trách nhiệm của Bộ Công an, Bộ LTBXH, UBND các cấp và sửa đổi luật pháp liên quan. 

Thứ hai, cần tăng cường tuyền thông trong mỗi gia đình, để thời gian tới sẽ thay đổi trong quản lý gia đình, tăng cường trách nhiệm của người bố, người mẹ, hay các anh, chị trong gia đình, cùng nhà trường, xã hội. 

Thứ ba, phối hợp trong thực thi pháp luật, bảo vệ quyền của các em trong quá trình tố tụng. 

Thứ tư, tập trung xử lý, giải quyết các vụ việc nghiêm minh và nhanh chóng nhất. 

Thứ năm, đẩy nhanh việc thực hiện các dịch vụ công, nhất là dịch vụ 111 hiện phản ứng nhanh, kết nối với Chủ tịch UBND xã, Đoàn thanh niên xã. 

Thứ sáu, tập trung đào tạo kỹ năng sống cho trẻ em. 

Cuối cùng, Bộ LĐTBXH đã kiến nghị với Chính phủ sẽ tổ chức hội nghị trực tuyến về tăng cường đấu tranh tội phạm bạo lực, xâm hại trẻ em trong tháng này - tháng hành động vì trẻ em.  

Phòng chống xâm hại trẻ em, cần giải pháp mạnh

Tranh luận với Bộ trưởng đại biểu Nguyễn Quang Tuấn cho rằng: Trong số các giải pháp được Bộ trưởng đưa ra, chưa có giải pháp nào mạnh vì đây là loại tội phạm khá đặc biệt, khá đặc thù, khó phát hiện. Đặc biệt bằng chứng rất cần có thời gian, mà thời gian ở đây không phải theo ngày, theo giờ mà theo tháng, theo năm.

“Chúng ta tiếp cận, xử lý tố cáo, xét xử phải làm nhanh, mạnh mẽ thì mới có được bằng chứng để kết tội”, đại biểu Nguyễn Quang Tuấn nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, đối tượng bị hại là những cháu bé, khi xảy ra chuyện rất hoang mang, các cháu chưa nhận thức được có thể khó cho việc lấy lời khai.

Trong khi đó, nhận thức ở cơ quan tố tụng cũng khác nhau. Bằng chứng là vụ án ở Vũng Tàu xử 18 tháng tù treo, mặc dù sơ thẩm là 3 năm tù, sau đó tòa giám đốc thẩm lại xử 3 năm tù.

“Rõ ràng, sự quan tâm của chính quyền, cơ quan tố tụng chưa bảo đảm, vấn đề xã hội và gia đình cũng chưa hợp lý trong việc bảo vệ sự an toàn cho các em. Vậy thì, chúng ta sợ điều gì?”, đại biểu Nguyễn Quang Tuấn đặt câu hỏi. 

Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

Các cơ quan quản lý nhà nước phải nêu cao trách nhiệm

Chất vấn Bộ trưởng, đại biểu Lưu Bình Nhưỡng cho rằng việc xâm hại tình dục trẻ em hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp, nhiều câu chuyện buồn khi xảy ra rồi chúng ta mới tố cáo, điều tra. Chúng ta có 17 cơ quan phụ trách vấn đề này chứ không riêng Bộ LĐTBXH nhưng gia đình có các em nhỏ bị xâm hại lại rất đơn độc. Mong Bộ có thái độ kiên quyết hơn nữa cùng các cơ quan khác vào cuộc. Riêng vụ việc cháu bé tại Thủ Đức bị xâm hại, yêu cầu các cơ quan chức năng sớm xem xét điều tra làm rõ vụ việc vì có nhiều tình tiết mờ ám.

Trả lời đại biểu, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho rằng, thời gian qua hệ thống pháp luật cơ bản đảm bảo quyền lợi của các em một cách đồng bộ, quy định rõ từng cơ quan quản lý phụ trách từng vấn đề và Bộ LĐTBXH là cơ quan Nhà nước quản lý trực tiếp.

Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng đồng ý với ý kiến đại biểu Lưu Bình Nhưỡng về việc thời gian vừa qua có một số vụ việc kéo dài, thậm chí xử lý chưa nghiêm minh. Nhiều vụ việc khi có ý kiến của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước thì mới tiến hành. Đây là vấn đề các cơ quan quản lý nhà nước phải nêu cao trách nhiệm. Các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng cần phải kiểm điểm, đánh giá thực chất lại vấn đề này như thế nào.

“Đại biểu muốn chúng tôi lên tiếng mạnh hơn. Hầu như các vụ việc liên quan đến xâm hại trẻ em, Bộ LĐTBXH đều chủ động có ý kiến. Nhiều vụ việc, tôi đã trực tiếp báo cáo Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ để có ý kiến trực tiếp. Có những vụ việc cá nhân tôi trực tiếp trao đổi.

Ví dụ, vụ án Nguyễn Khắc Thủy, ngay buổi chiều hôm kết thúc Phiên tòa của Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu, tôi đã báo cáo với Quốc hội, đã xin gặp trực tiếp, trao đổi trực tiếp với Viện trưởng VKSNDTC Lê Minh Trí và Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình.

Tôi nói rõ, quan điểm cá nhân tôi cũng như trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước không đồng tình với kết quả xét xử và đề nghị, Tòa án nhân dân tối cao, VKSNDTC xem xét lại và xử lý nghiêm minh theo pháp luật”, Bộ trưởng giải trình và khẳng định: Trong các vụ việc không phải Bộ không lên tiếng mà tùy từng vụ việc Bộ đều có ý kiến theo những cách khác nhau để bảo vệ quyền lợi các em.

Làm gì để khuyến khích bà con bám biển?

Đại biểu Dương Trung Quốc chất vấn: Trong giải trình của Bộ trưởng về vấn đề đưa lao động đi nước ngoài có đưa ra một sự việc như là thành tích của mình. Đó là sau sự kiện Formosa, Bộ đã đưa 18.000 người dân 4 tỉnh ra nước ngoài làm việc.

Nỗi lo lắng của chúng tôi là với việc chuyển đổi như hiện nay, xu hướng người dân lên bờ làm việc nhiều hơn nghề đi biển gian khổ, nguy hiểm, vất vả. Vậy Bộ có chủ trương gì để khuyến khích bà con bám biển, vì đó không phải chỉ là lao động mà lực lượng bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc?

Trả lời đại biểu, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho rằng: Câu hỏi của đại biểu Dương Trung Quốc rất khó đối với ông và cho rằng “riêng câu hỏi này, một mình Bộ LĐTBXH không làm được”.

Còn việc Bộ cố gắng đưa được 18.000 lao động ở 4 tỉnh sau khi xảy ra sự cố Formosa đi làm việc tại nước ngoài là sự giải quyết mang tính chất tình thế, tạm thời. Bộ không coi đây là giải pháp lâu dài.

Giải pháp lâu dài là phải ổn định đời sống cho bà con vùng biển. Bộ trưởng tiếp thu ý kiến của đại biểu và sau kỳ họp này sẽ bàn với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung cụ thể hóa chiến lược biển, trong đó có đào tạo nghề, tạo công ăn việc làm cho bà con.

Đã hỗ trợ 3,6 triệu lượt người thất nghiệp

Đại biểu Trương Thị Bích Hạnh chất vấn giải pháp để doanh nghiệp tiếp cận được nguồn lực từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp nhằm đảm bảo việc làm ổn định cho người lao động?

Trả lời đại biểu, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, hiện Quỹ bảo hiểm thất nghiệp kết dư 67.000 tỷ đồng. 10 năm qua quỹ này đã hỗ trợ 3,6 triệu lượt người thất nghiệp; 3,2 nghìn người học nghề.

Doanh nghiệp muốn được hỗ trợ từ quỹ này thì phải đảm bảo 3 điều kiện: Đất nước suy giảm kinh tế; thay đổi cơ cấu doanh nghiệp; lý do bất khả kháng.

Bộ trưởng cho biết, tới đây Bộ sẽ đề xuất Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho giảm nhẹ các điều kiện để doanh nghiệp có thể cận được vốn từ quỹ này. 

Bộ cũng sẽ hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp theo thông lệ các nước đang áp dụng.

Không có chuyện lao động sau 35 tuổi ở doanh nghiệp FDI bị sa thải hàng loạt

Đại biểu Phùng Thị Thường nêu chất vấn về giải pháp bảo vệ quyền lợi cho người lao động khu vực FDI trước xu hướng thất nghiệp sau 35 tuổi tại khu vực này gia tăng, nhất là lao động nữ.

Trả lời đại biểu, Bộ trưởng khẳng định doanh nghiệp FDI có vai trò rất quan trọng, đóng góp rất lớn về kinh tế cho đất nước. Cùng với đóng góp kinh tế thì khu vực FDI  góp phần rất quan trọng vào giải quyết lực lượng lao động . Tính đến nay riêng khu vực FDI có khoảng 2,68 triệu người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp FDI. Trong đó một số tập đoàn lớn như Pou Chen khoảng 150, Samsung khoảng 170, hãng Nike kể cả gia công khoảng 400 nghìn lao động. Phần đa, những tập đoàn, những doanh nghiệp FDI lớn rất quan tâm đến đời sống phúc lợi của người lao động. Vừa qua xảy ra một số vụ việc chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ và lẻ.

Về việc bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp FDI, Bộ trưởng cho biết, về cơ bản các doanh nghiệp, các tập đoàn FDI cũng quan tâm đến đời sống của người lao động.

Thời gian vừa qua, Thủ tướng, Phó Thủ tướng, các đồng chí lãnh đạo các cơ quan cũng đã đi kiểm tra thực tiễn rất nhiều doanh nghiệp FDI. Thủ tướng cũng mới có đối thoại với doanh nghiệp FDI và đối thoại với công nhân. Chúng ta cũng điều chỉnh để đề nghị các doanh nghiệp FDI quan tâm nhiều hơn đến phúc lợi xã hội. Bình quân mức lương hiện nay tại các tập đoàn lớn khoảng 5,5 triệu.

Có ý kiến nói thời gian vừa qua, tỷ lệ ở các doanh nghiệp FDI xa thải số người tuổi 30, 35 là tỷ lệ lớn. Thậm chí có ý kiến của một viện nghiên cứu đưa ra đó là xa thải 80% người lao động ở độ tuổi 30, 35.

Báo cáo với Quốc hội và cử tri cả nước, Bộ trưởng khẳng định “không có chuyện này” và cho biết, thời gian vừa qua, ngay sau khi có thông tin Bộ đã phối hợp với Ủy ban Về các vấn đề xã hội Quốc hội, đi khảo sát và đi kiểm tra thực tiễn ở các doanh nghiệp và một số doanh nghiệp của ba tỉnh, Bình Dương, Đồng Nai, Bắc Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh.

Kết quả cho thấy “con số không phải như thế”. Chỉ có 11%, trong số 11% của những người nghỉ việc hoặc xin nghỉ việc hoặc nghỉ một lần vì nhiều lý do khác nhau, nằm trong số này, số ở độ tuổi 30, 35. Tất cả số nghỉ này có thể là vì nguyện vọng cá nhân hoặc nghỉ một lần chứ không phải bị sa thải. Nếu tính như vậy chỉ vào khoảng 1,9% so với tổng số người lao động của doanh nghiệp đó. Còn riêng Thành phố Hồ Chí Minh và Bắc Ninh rất hạn chế.

Bộ trưởng cho biết, gần đây nhất, cách đây một tuần ông đã trực tiếp đi nghe ở Samsung, hiện nay Samsung bỏ tiền ra đào tạo 1.986 công nhân học chương trình cao đẳng. Trong đó 555 đã tốt nghiệp và khi tốt nghiệp xong họ nâng lương cho những người này, mức tăng thên là 977.000 đồng/người/tháng. FDI của Samsung vừa rồi nhận 1.862 người, trong đó có 551 người ở độ tuổi 35.

“Về cơ bản tôi báo cáo đại biểu như vậy để thấy bức tranh tổng thể. Tuy nhiên, chúng tôi tiếp tục tiếp thu ý kiến đại biểu, đúng là phải chăm lo cho khu vực này". 

"Vì vậy, ngày 2/6 vừa qua tôi đã báo cáo Chính phủ, trong nghị quyết của Chính phủ đồng ý để Bộ xây dựng một dự án về tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho công nhân, người lao động FDI khi thất nghiệp hoặc hỗ trợ các doanh nghiệp FDI cũng như doanh nghiệp nói chung của chúng ta có thể đào tạo, chuyển nghề cho người lao động khi doanh nghiệp thay đổi cơ cấu sản xuất mà nguy cơ người lao động phải thay đổi hoặc không có việc làm. Khi chúng tôi triển khai đề án này các nội dung sẽ được triển khai chu đáo, kể cả về công việc, về đào tạo nghề, thu nhập và các điều kiện khác” – Bộ trưởng nói.

Ảnh VGP/Nhật Bắc

Năm 2018 là năm đột phá giáo dục nghề nghiệp

Có 68 đại biểu Quốc hội đăng ký chất vấn Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Đào Ngọc Dung. Mở đầu phiên chất vấn đại biểu Trần Thị Hằng (Bắc Ninh), Trần Văn Mão (Nghệ An), Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình),  gửi tới Bộ trưởng chất vấn về giải pháp ưu tiên nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, trình độ lao động; sắp xếp lại các trung tâm dạy nghề;...

Về giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Bộ trưởng cho biết chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay thấp, chưa theo kịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đào tạo còn bất cập, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng cả về kỹ năng, thu nhập, độ an toàn, mạng lưới an sinh... do đó thời gian tới ưu tiên cho giáo dục nghề nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động. 

Bộ chọn năm 2018 là năm đột phá về giáo dục nghề nghiệp, trong đó: Tiến hành quy hoạch lại toàn bộ mạng lưới giáo dục nghề nghiệp; chuyển mạnh sang tự chủ tạo động lực phát triển giáo dục nghề nghiệp; chuyển hẳn sang một hướng mới là kết nối đào tạo với doanh nghiệp, doanh nghiệp đồng hành với giáo dục nghề nghiệp, đào tạo theo đơn đặt hàng, đào tạo gắn với thị trường, với cung cầu lao động...

Năm 2018, Bộ đã bắt đầu thí điểm các chủ trương mới này với 10 trường liên kết với 15 tập đoàn, đào tạo theo đơn đặt hàng, theo địa chỉ là 15.000 lao động. Bộ trưởng khẳng định, đây mới là sự mở đầu, nhưng là sự mở đầu quan trọng cho một hướng đi mới.

Bên cạnh đó, Bộ sẽ đẩy mạnh sắp xếp lại các đơn vị đào tạo, sáp nhập các trung tâm cấp huyện, những trường nào không tuyển sinh được, không đáp ứng nhu cầu thì kiên quyết sắp xếp lại, thậm chí giải thể, theo tinh thần bảo đảm tinh gọn bộ máy, nhưng hoạt động có hiệu quả.
Ảnh VGP/Nhật Bắc

Xuất khẩu lao động đem lại lợi ích rất lớn

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy (Đà Nẵng); Nguyễn Tạo (Lâm Đồng); Đôn Tuấn Phong (An Giang) chất vấn giải pháp nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động; giải pháp ngăn chặn tình trạng bạo hành, bạo lực, xâm hại trẻ em; giải pháp quản lý tình trạng lao động các tỉnh giáp biên tự do lao động ở nước ngoài...

Về xuất khẩu lao động, Bộ trưởng cho biết đây là một chủ trương của Đảng, Nhà nước đã được luật pháp quy định cụ thể, chúng ta đã đặt ra mục tiêu phấn đấu đưa 1 triệu thanh niên đi lao động, học tập ở nước ngoài, năm 2017 chúng ta đưa được 1340.000 lao động đi xuất khẩu,... việc này đem lại lợi ích rất lớn, 1 năm thu về khoảng 3 tỷ USD. Tuy nhiên, công tác xuất khẩu lao động còn những bất cập như tỷ lệ lao động bỏ trốn, kết thúc hợp đồng không về nước, ở lại lao động bất hợp pháp vẫn xảy ra ở một số thị trường (Hàn Quốc),... Bộ đã có nhiều giải pháp xử lý quyết liệt, bước đầu đã ngăn chặn được tình trạng này...

Với doanh nghiệp xuất khẩu lao động, Bộ trưởng cho biết, quan điểm là tạo điều kiện quan tâm tối đa cho người lao động, doanh nghiệp đi sâu vào các thị trường. Bộ trưởng cũng thừa nhận có thực tế "loạn thu phí, cò mồi, trốn trách nhiệm từ phía doanh nghiệp xuất khẩu lao động" như đại biểu nêu và cam kết sẽ chấn chỉnh một bước các vấn đề này.

Bộ trưởng cũng cho biết thêm, qua thanh tra 51 doanh nghiệp đã phát hiện sai phạm, xử phạt hành chính hơn 3 tỷ đồng, thu hồi giấy phép hoạt động 5 doanh nghiệp, đình chỉ tạm thời 25 đơn vị. Trong số này có doanh nghiệp hoạt động 20 năm cũng bị đình chỉ, thu giấy phép.

Về giải pháp bảo vệ lao động qua biên giới, thời gian vừa qua Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm, chỉ đạo tập trung xử lý vấn đề này. Hiện chúng ta ước tính khoảng 139.000 lao động thường xuyên qua biên giới làm việc. Chúng ta thiếu khuôn khổ pháp lý về vấn đề này. Tuy nhiên có những nước đã đàm phán được, có những nước chưa thể đàm phán xong... Hiện Bộ đang hướng dẫn 7 tỉnh phía Bắc ký biên bản với các địa phương phía bạn về bảo vệ lao động.

Xử lý nghiêm các vụ bạo hành trẻ em

Về phòng chống bạo lực, bạo hành, xâm hại trẻ em, Bộ trưởng cho biết, ở nước ta hàng năm nước ta có khoảng 2.000 trẻ em bị bạo hành.

Về pháp luật, chúng ta đã có đầy đủ các khung pháp lý về vấn đề này; chúng ta cũng đã tiến hành thực hiện nhiều giải pháp như: Tuyên truyền vận động; công bố đường dây nóng 111; tiến hành xử lý nghiêm các vụ việc nổi cộm... Nhưng gần đây xuất hiện một số vụ việc có tính chất phức tạp hơn, gây bức xúc xã hội... 

Thời gian tới Bộ sẽ rà soát lại các quy định pháp lý, quy định rõ trách nhiệm của các bộ ngành, địa phương; đồng thời tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng, xã hội, gia đình để thực hiện tốt công tác này.

Liên quan đến trẻ em vùng sâu vùng xa, Bộ trưởng nhìn thẳng vấn đề, cho rằng trẻ em nơi đây rất thiệt thòi, do điều kiện sinh sống, tỷ lệ hộ nghèo miền núi cao… Gần đây tuy đã có nhiều chính sách dành cho miền núi và với trẻ em nơi đây, nhưng tỷ lệ thụ hưởng, mức thụ hưởng còn hạn chế. Bộ trưởng thừa nhận, trong đó có trách nhiệm về mặt quản lý nhà nước của Bộ, mặc dù cố gắng phối hợp với Ủy ban Dân tộc nhưng kết quả chưa như mong muốn. Thời gian tới, sẽ đẩy mạnh hơn.

 

 

 

 

D.T
Ý kiến bạn đọc
  • Sáng mãi trang sử vàng tháng Tư

    Sáng mãi trang sử vàng tháng Tư

    Theo vòng quay của thời gian, lại một tháng Tư nữa lại về! Tháng Tư về, nhiều khoảnh khắc thiên nhiên tươi đẹp đọng lại trong mỗi người khi mùa Xuân sắp qua đi, nhường chỗ cho mùa Hè tràn ngập ánh vàng lấp lánh của nắng, sắc trắng mong manh của hoa loa kèn có mặt ở mọi nẻo đường, nhiều góc phố Thủ đô yêu dấu.

  • Thanh niên với phát triển đất nước thời kỳ mới

    Thanh niên với phát triển đất nước thời kỳ mới

    Những người từ 15 đến 30 tuổi được gọi là thanh niên. Đây là lứa tuổi đang trưởng thành, đang vào đời, bắt đầu hành trình lập thân lập nghiệp.

  • Diện mạo mới từ chính sách phù hợp

    Diện mạo mới từ chính sách phù hợp

    Trong hơn 40 năm qua, kể từ khi thực hiện Khoán 100 (Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp), rồi Khoán 10 (Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.

Top