Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ hai, ngày 6 tháng 5 năm 2024  
Thứ tư, ngày 19 tháng 10 năm 2022 | 15:59

Đảm bảo chất lượng nguồn nước và vệ sinh môi trường cho người dân sau lũ

Sáng ngày 19/10, Tạp chí Môi trường và Cuộc sống tổ chức tọa đàm trực tuyến với chủ đề: “Đảm bảo chất lượng nguồn nước và vệ sinh môi trường cho người dân sau lũ”, nhằm tìm ra các giải pháp quản lý, sử dụng nước sạch, vệ sinh môi trường, nâng cao nhận thức của người dân vùng lũ.

Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Nhà báo Khánh Toàn – Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống chia sẻ: Nước sạch và vệ sinh môi trường luôn được coi là yếu tố mang tính chất sống còn đối với mỗi quốc gia, đặc biệt trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Theo đó, thực trạng mỗi mùa mưa lũ qua đi, không những cướp đi người và của cải vật chất, rất nhiều địa phương còn đứng trước nguy cơ thiếu nước sạch và vấn đề vệ sinh môi trường.

Ô nhiễm môi trường nước ở nước ta đã kéo theo những hệ lụy khủng khiếp cho con người. Cứ mỗi năm các tổ chức quốc tế vẫn tiếp tục đưa ra những con số rất đáng lo ngại về tình trạng ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam.

Khoảng 9.000 người tử vong mỗi năm do nguồn nước bẩn. Khoảng 20.000 người phát hiện bị ung thư nguyên nhân chính là do ô nhiễm nguồn nước (theo Bộ Y Tế và Bộ Tài Nguyên và Môi Trường). Khoảng 44% trẻ em bị nhiễm giun do sử dụng nước bị không đạt chất lượng. 27% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng do thiếu nước sạch và vệ sinh kém (theo WHO).

Vì vậy để tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục và giải quyết các vấn đề tồn tại, đảm bảo nguồn nước sạch sinh hoạt sau lũ là việc làm hết sức cần thiết. Tạp chí Môi trường và Cuốc sống tổ chức Tọa đàm: “Đảm bảo chất lượng nguồn nước và vệ sinh môi trường cho người dân sau lũ”.

Thực trạng thiếu nước sạch và ô nhiễm môi trường

Sau mưa lũ, tại những vùng bị thiên tai lũ lụt, nguồn nước thường bị bẩn, ô nhiễm do các chất thải từ cống rãnh, bùn đất, xác động vật chết,… lẫn vào nước nước sông, suối, ao hồ. Tại các khu vực bị ngập nước, các nguồn nước, công trình cấp, thoát nước, công trình vệ sinh bị phá hủy khiến tình trạng thiếu nước sạch sinh hoạt càng trở nên nghiêm trọng.

Đánh giá về thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên nước hiện nay cũng như việc khan hiếm và khó khăn về nguồn nước, địa phương thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước - Bộ Tài nguyên và Môi trườngcho biết: Việt Nam đang phải đối mặt chỗ quá thừa chỗ quá thiếu, chỗ quá bẩn, ở góc độ Ngân hàng Thế giới đã nhận xét về tài nguyên nước của Việt Nam. Nước ta thực tế có khoảng 840 tỷ m3/năm. Tuy nhiên, nhu cầu về sử dụng phân bổ không đồng đều giữa các vùng, nguồn nước mà có thể khai thác được cũng không thể đồng đều giữa các vùng cũng như là các mùa, mùa khô lượng nước trong tổng 840 tỷ m3/năm chỉ chiếm khoảng 15 - 20% và một số nơi còn xuống dưới 15%, ví dụ một số năm như 2016, của vùng ĐBSCL lượng nước chỉ còn dưới 10% và sinh ra hạn mặn đặc biệt nghiêm trọng năm 2015 và đầu năm 2016. Những vùng thường xuyên hạn hán thiếu nước như ĐBSCL, ở vùng Tây Nguyên có nhiều nước nhưng do đặc điểm địa hình, hệ xâm thực sâu, nên việc tiếp cận với nguồn nước khó khăn, sử dụng nước cho sinh hoạt, cho sản xuất, đặc biệt là mùa khô việc thiếu nước đã xảy ra trong những năm gần đây.

Hiện nay, một số địa phương vẫn còn khó khăn trong việc tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn. Một số tỉnh như: tỉnh Sơn La với trữ lượng nước mặt khoảng 19 tỷ m3/năm, tuy nhiên một số vùng thuộc huyện Mộc Châu vẫn thiếu nước nghiêm trọng. Vùng miền núi phía Tây tỉnh Nghệ An người dân cũng đang thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt. Tại tỉnh Hà Tĩnh mặc dù lượng nước nhiều nhưng hàng năm vẫn thiếu khoảng 95 triệu m3 nước cho sản xuất và sinh hoạt. 

Việt Nam rất chú trọng trong việc giải quyết an ninh nguồn nước, tức là giải quyết tình trạng quá thừa, quá thiếu, quá bẩn. Trong kế hoạch những năm tới và dài hơn đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường chuẩn bị trình các cấp để có kế hoạch cụ thể.

Theo báo cáo của các địa phương, có khoảng 148.260 hộ dân gặp khó khăn về nước sinh hoạt do lũ, lụt trong mùa mưa bão lịch sử năm 2020. Trong đó, 69.800 hộ chịu ảnh hưởng từ công trình cấp nước tập trung, 79.460 hộ từ công trình cấp nước hộ gia đình.

Đánh giá về thực trạng này, ông Nguyễn Thành Luân, Phó Giám đốc Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn - Tổng cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho biết: Hiện nay, biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến toàn cầu gây ra tác động lâu dài như: thiên tai như bão lũ, hạn hán. Khi thiên tai xảy ra gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người nghèo mà trong khi đó họ là tác nhân gây ra ít nhất cho biến đổi khí hậu. Khi lũ lụt xảy ra thì toàn bộ các vùng bị ngập, các công trình bị ngập trong nước như vậy thì toàn bộ dân ở trong vùng lũ lụt bị ảnh hưởng nặng nề trong đó có vấn đề về nước sạch và vệ sinh an toàn nông thôn.

Đảm bảo vệ sinh môi trường, nước sạch trong mùa bão lụt.

Với nhìn nhận của mình Tiến sĩ Nguyễn Thế Đồng, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam cho biết: Không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới trong những năm gần đây thời tiết cực đoan ngày càng trở nên thường xuyên hơn đánh giá về nguyên nhân sâu xa đây là tác động của biến đổi khí hâu gây nên hiện tượng thời tiết cực đoan, thực tế hàng năm nhiều vùng đối mặt hoặc là lũ lụt hay hạn hán chưa từng có, chúng ta đối mặt với những đợt mưa lũ lịch sử, hạn hán lịch sử. Làm sao để khắc phục hậu quả này chúng ta phải ngày càng quan tâm hơn về tác động của biến đổi khí hậu.

Những thách thức, bất cập, tồn tại cần tháo gỡ

Trong điều kiện bình thường, tỉ lệ người dân ở một số địa phương được tiếp cận với nước sạch còn khá thấp nên đảm bảo nước sạch, vệ sinh môi trường và ứng phó với các vấn đề sức khỏe môi trường khác trong tình huống thảm họa thiên tai là một thách thức lớn của các ban, ngành liên quan cần được tiếp tục ưu tiên đầu tư nguồn lực trong thời gian tới.

Dù nước lũ lên cao tại các địa phương nhưng nguồn nước sạch sinh hoạt được bảo đảm.

Theo ông Nguyễn Minh Khuyến, nước ta là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH, trong đó tài nguyên nước sẽ chịu những ảnh hưởng lớn nhất và sớm nhất do những diễn biến bất thường về lượng mưa và nước biển dâng, tập trung mạnh nhất ở hai khu vực sản xuất lúa gạo và sản phẩm thủy sản chủ yếu của cả nước là vùng ĐBSCL và đồng bằng sông Hồng, dự báo đến 2030 có 45% diện tích vùng ĐBSCL có nguy cơ nhiễm mặn, làm giảm 9% năng suất lúa so với hiện nay. Hệ lụy của biến đổi khí hậu chúng ta có thể nhận thấy và dự báo được.

Đặt ra đối với công tác quản lý tài nguyên nước, Đảng và Nhà nước cũng đã quan tâm sát sao và Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 50 và Chính Phủ đã giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường sửa đổi Luật tài nguyên nước năm 2012, nhằm sử lý các vấn đề về an ninh nguồn nước nguồn lực cho công tác bảo vệ phát triển nguồn nước, riêng đối với đảm bảo an ninh nguồn nước vừa qua Bộ Chính trị cũng đã có kết luật số 36-KL/TW, trong đó nêu rõ về các nội dung đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, trong đó cũng chỉ ra các nhiệm vụ hết sức cụ thể, ví dụ như để giải quyết về lũ lụt phải tăng cường công tác tích trữ nước khi mưa lũ để cấp nước cho mùa khô, xử lý các vấn đề ô nhiễm phải đảm bảo các yếu tố về quản lý chặt chẽ các cơ sở gây ô nhiễm. Đó là những cái hết sức cụ thể, và một khía cạnh nữa về xây dựng các cơ sở hạ tầng về nước có tham dự của tư nhân thì luật Tài nguyên nước, cũng như các quy định của pháp luật để quản lý hệ thống do Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Xây dựng quản lý cũng đi theo hướng xã hội hóa, đặc biệt những dòng sông bị ô nhiễm thì cần nguồn lực của xã hội, nguồn lực từ khối tư nhân chung tay để xây dựng ngành nước cũng như môi trường mà hàng ngày chúng ta sử dụng sẽ được an toàn và đầy đủ hơn để đảm bảo góc độ về an ninh nguồn nước cả về sử dụng và cả về môi trường, chống chọi được với các rủi ro như hạn hán, ngập lụt, trong Luật Tài nguyên nước sửa đổi lần này cũng có những cái quy định để giải quyết vấn đề ngập lụt đô thị ví dụ như trữ nước mưa, làm chậm dòng chảy, tức là quản lý dòng chảy tại nguồn để quản lý, giảm thiểu được ngập lụt đô thị.

Còn theo bà ThS. Nguyễn Thị Bích Thủy, Phó trưởng khoa Sức khỏe môi trường và cộng đồng - Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường (Bộ Y tế), nguồn nước và môi trường sống sẽ bị ảnh hưởng sau mưa lũ và có thể làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Các bệnh có nguy cơ gặp cao nhất là: tiêu chảy, sốt xuất huyết, đau mắt đỏ, viêm đường hô hấp, cảm cúm...

Cần giải pháp hữu hiệu về chính sách, quy hoạch

Bảo đảm, phục hồi, tái thiết nguồn nước sạch và vệ sinh môi trường ở các địa phương sau lũ cần những giải pháp cấp bách mang tính bền vững để người dân ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất.

Ở những vùng nông thôn và miền núi, nước giếng đào, nước suối và các nguồn nước tự chảy là nguồn cung cấp nước phục vụ cho ăn, uống và sinh hoạt hàng ngày phổ biến của người dân. Sau mưa lũ, hầu hết nguồn nước đều bị ô nhiễm. Vậy, cần phải xử lý các nguồn nước này như thế nào để bảo đảm vệ sinh cho người dân sử dụng. 

Chia sẻ về vấn đề này, ThS. Nguyễn Thị Bích Thủy cho biết: Sau mưa lũ, hầu hết các nguồn nước thường bị ô nhiễm nặng, nếu người dân không biết cách xử lý nước trước khi đưa vào sử dụng thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe. Một số phương pháp xử lý nguồn nước sau khi mưa lũ để đảm bảo vệ sinh phục vụ sinh hoạt của người dân như sau:

Đối với giếng khơi

Tiến hành xử lý nguồn nước được theo 3 bước:

Bước 1. Thau rửa giếng nước:

Khơi thông tất cả các vũng nước xung quanh khu vực giếng.

Thảo bỏ nắp và nylon bịt giếng.

Trước khi làm trong và khử trùng phải tiến hành thau vét giếng. Dùng nước giếng dội lên thành giếng cho trôi hết đất cát và rác bám trên thành và nền giếng.

Nếu giếng ngập lụt, nước đục, phải tiến hành thau vét giếng. Múc cạn nước và vét hết bùn cặn.

Các vùng có điện hoặc máy nổ thì dùng bơm điện hút cạn nước rồi thau vét giếng. Trong trường hợp không thể thau vét được thì chọn một giếng khác để xử lý và dùng chung.

Nếu tất cả các giếng trong khu vực đó đều không thể thau vét được thì có thể áp dụng biện pháp xử lý tạm thời: múc vài chục lít nước lên bể chứa rồi đánh phèn và khử trùng, dùng hết làm mẻ khác, chờ vài ngày sau mức nước giếng xuống thấp mới tiến hành thau rửa.

Trường hợp không có phèn chua để làm trong nước, làm một bể lọc cát tạm thời bằng một thùng, xô hay vại thể tích khoảng 20 – 30lít. Đục một lỗ đường kính 1cm trên thành cách đáy thùng 5cm, cho một ít đá hoặc gạch vỡ lót ở đáy, đặt một mảnh bao tải gai lên trên rồi đổ cát dày khoảng 25 – 30cm. Đổ nước giếng vào cho đến khi nước chảy ra trong thì lấy để khử trùng.

Bước 2. Làm trong nước giếng:

Dùng phèn chua (loại thường dùng là phèn nhôm) với liều lượng 50g/1m3 nước, nếu nước đục nhiều có thể cho lượng phèn tối đa 100g/1m3 nước.

Hòa tan hết lượng phèn cần thiết vào một gàu nước rồi tưới đều lên thành giếng, thả gàu chìm sâu xuống nước rồi kéo mạnh lên khoảng 10 lần rồi để yên 30 phút – 1 giờ cho cặn lắng hết thì tiến hành khử khuẩn.

Bước 3. Khử khuẩn giếng nước:

Về nguyên tắc nước giếng sau khi khử khuẩn phải có nồng độ clo dư là 0,5 – 1mg/L

Dùng cloramin B để khử khuẩn nước giếng 10g/m3 nước. Có thể dùng một số hóa chất khác như clorua vôi (13g/m3), canxi hypoclorit 70% (4g/m3).

Múc một gàu nước, hòa lượng hóa chất nói trên vào nước. Lưu ý phải khuấy cho tan hết. Tưới đều gàu nước này vào giếng. Thả gàu cho chìm sâu đến nửa cột nước rồi kéo lên kéo xuống khoảng 10 lần.

Dùng nước giếng này dội lên thành giếng để khử khuẩn, sau đó để yên khoảng 30 phút là có thể dùng được.

Nước đã khử khuẩn bằng cloramin như trên vẫn phải đun sôi mới được uống. Trong trường hợp không có hóa chất khử khuẩn, chỉ ăn và uống nước đun sôi 10 phút trở lên và không ăn các loại rau sống rửa bằng nước chưa khử khuẩn.

Đối với giếng khoan

Bơm hết nước đục và bơm tiếp 15 phút nữa, bỏ nước đi sau đó có thể dùng được.

Về vấn đề ô nhiễm và khan hiếm nguồn nước đang là thực tế của người dân vùng lũ. Trao đổi về kịch bản cụ thể cho từng vùng trong trường hợp thiếu nước sạch, Ông Nguyễn Thành Luân cho biết, 

Hướng dẫn cách bảo quản các công trình cấp nước tập trung và cấp nước hộ gia đình cũng như xử lý nước vùng lũ, công trình cấp nước vùng hạn hán, để giải quyết nhanh chóng nguồn nước hợp vệ sinh trong mưa lũ và hạn hán. Về lâu dài, cần có các giải pháp đồng bộ, trước hết muốn có nước cần có nguồn nước đảm bảo. Ví dụ, các vùng hạn hán cần có các hồ chưa nước thủy lợi và hồ chứa nước phục vụ dân sinh, để khi xảy ra hạn hán hay mưa lũ, nguồn nước bị cạn kiệt hoặc bị ô nhiễm thì có nguồn nước dự trữ để xử lý.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là để giải quyết được thực trạng này cần nguồn kinh phí lớn. Vì vậy, chúng tôi đề xuất trong thiết kế công trình cấp nước phải tính toán đến yếu tố biến đổi khí hậu. Ông Luân nêu ví dụ, các công trình cấp nước cho người dân vùng lũ, các trạm bơm thiết kế 2 tầng, bình thường, chúng ta ở tầng thấp, nhưng khi có mưa lũ chúng ta sẽ di chuyển lên tầng cao. Nhưng có nhiều địa phương khi thiết kế các phương án trình lên các cơ quan cấp trên phê duyệt, có thể chúng ta thiết kế hàng năm không sử dụng đến nhưng khi có thiên tai bất thường lại trở tay không kịp. Chúng tôi đã có hướng dẫn các khu vực vùng sâu, vùng xa có hướng dẫn, xử lý trữ nước hộ gia đình, điều này rất cần thiết khi có bão lũ, thiên tai. Chúng tôi đã kêu gọi các tổ chức hỗ trợ bà con thiết bị trữ nước, có thể lấy nước ở vùng lũ, nước ô nhiễm qua hệ thống xử lý nước đó, chúng ta lại có nguồn nước đảm bảo để sử dụng bình thường.

Trao đổi tại buổi Tọa đàm, ông Nguyễn Minh Khuyến cho biết: Mục tiêu phát triển bền vững “Đảm bảo nguồn cung cấp và quản lý bền vững tài nguyên nước và các điều kiện vệ sinh an toàn cho tất cả mọi người” (SDG6) đến năm 2030 có 6 mục tiêu SDGs cụ thể gồm các nội dung như: hiệu quả sử dụng nước, giải quyết tình trạng khan hiếm nước, phục hồi các hệ sinh thái liên quan đến nước, sự tham gia của các cộng đồng địa phương nhằm cải thiện việc quản lý nước vốn đang được thực hiện thông qua các văn bản pháp quy của lĩnh vực tài nguyên nước hiện có như các quy trình vận hành liên hồ chứa có xem xét tính toán nước cho các hệ sinh thái liên quan; ưu đãi cho sử dụng tài nguyên nước tiết kiệm và hiệu quả; thành lập các tổ chức lưu vực sông,...

Để bảo đảm an ninh nguồn nước và hướng tới thực hiện các mục tiêu SDG6, ở Việt Nam hiện tại cũng như trong thời gian sắp tới và lâu dài, tại Kết Luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị, nhiệm vụ ngắn hạn có, dài hạn cũng có, đảm bảo cấp nước, số lượng chất lượng nước cho sinh hoạt cho sản xuất là mục tiêu ở trong Kết luận này và trong Đại hội Đảng XIII cũng đề cập, đến năm 2030, 100% dân số đô thị và 80% dân số nông thôn được sử dụng nước đảm bảo an toàn đó là mục tiêu cụ thể.

Trong quản lý, ngay tại Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị cũng đã chỉ rõ những nhiệm vụ, cụ thể 9 nhiệm vụ này Quốc hội, Chính phủ sẽ có những quy định về trong Luật cũng như Nghị định và trách nhiệm của các Bộ, ngành triển khai, 9 nhiệm vụ này thể hiện rõ một số nhiệm vụ rất cần thiết và rất gần chúng ta đã và đang thực hiện và sắp tới càng phải bám sát để thực hiện, ví dụ như nâng cao nhận thức của toàn xã hội về an ninh nguồn nước gồm có đảm bảo nước cho sử dụng cho sinh hoạt, sản xuất và đảm bảo về môi trường, môi trường có 2 góc cạnh ứng phó với rủi ro về ngập lụt, ứng phó được với hạn hán. Những công việc đó phải đảm bảo được cả xã hội nhận thức được, từ cấp Trung ương đến địa phương và người dân.

Trong Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị cũng đã chỉ rõ trách nhiệm của các bộ ngành về nâng cao chất lượng về quy hoạch, giám sát các quy hoạch đây là những nhiệm vụ rất cần thiết đã được chỉ ra trong kết luận này. Ngoài ra, trong phòng chống giảm thiểu tác hại do nước gây ra như ngập lụt, hạn hán, ô nhiễm đó là những nhiệm vụ chúng ta đã, đang làm và cần phải giám sát chặt chẽ hơn.

Đối với lĩnh vực tài nguyên nước mà Bộ Tài nguyên và Môi trường đang quản lý, những nhiệm vụ của Kết luận số 36-KL/TWcủa Bộ Chính trị cũng như các chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), những chỉ đạo của Đảng, Nhà nước được cập nhật vào trong Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nhằm đảm bảo an ninh tài nguyên nước.

 

 

P.V
Ý kiến bạn đọc
  • Nghệ An hoàn thành hơn 8.400 căn nhà cho người nghèo

    Nghệ An hoàn thành hơn 8.400 căn nhà cho người nghèo

    Ngày 19/4, UBND tỉnh Nghệ An tổ chức sơ kết 1 năm triển khai chương trình vận động, hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà cho người nghèo, người có khó khăn về nhà ở giai đoạn 2023-2025 (Chương trình 1838).

  • “Chỉ cần sức khỏe tốt, tôi còn hiến máu cứu người”

    “Chỉ cần sức khỏe tốt, tôi còn hiến máu cứu người”

    Với 28 lần hiến máu nhân đạo, trình dược viên Từ Thị Tuyên (SN 1989), xã Thạch Thắng, Thạch Hà (Hà Tĩnh) đã trở thành tấm gương sáng trong các hoạt động an sinh xã hội, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng…

  • PVcomBank mang yêu thương đến những hoàn cảnh khó khăn tại Lào Cai

    PVcomBank mang yêu thương đến những hoàn cảnh khó khăn tại Lào Cai

    Với tinh thần tương thân tương ái, vừa qua, Đoàn Thanh niên Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam (PVcomBank) đã tổ chức chương trình từ thiện “Xuân tình nguyện 2024” để thăm hỏi, động viên và trao quà đến các em học sinh nghèo, các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn tại xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Đây là hoạt động hưởng ứng tinh thần Tháng Thanh niên và Năm Thanh niên tình nguyện của tuổi trẻ PVcomBank.

Top