Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ sáu, ngày 29 tháng 3 năm 2024  
Thứ bảy, ngày 27 tháng 5 năm 2023 | 8:57

Việt Nam với mục tiêu Net Zero vào năm 2050

Tại diễn đàn “Điện gió và mục tiêu Net Zero vào năm 2050”, nhiều ý kiến đề xuất, kiến nghị hoàn thiện thể chế, chính sách và các giải pháp đẩy mạnh việc huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho phát triển năng lượng tái tạo nói chung và điện gió nói riêng, tiến đến mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Là quốc gia đang phát triển, Việt Nam đã khẳng định "tiên phong trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu" khi đưa ra các cam kết tham vọng về mục tiêu "đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050" và ký tham gia toàn bộ nội dung của "Tuyên bố toàn cầu về việc chuyển đổi từ điện than sang năng lượng sạch" tại COP26.

Các đại biểu theo dõi tham luận tại diễn đàn.

Vậy đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam và với nền kinh tế đang phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, mục tiêu liệu có khả thi? Những cam kết này sẽ mang lại những cơ hội và thách thức gì cho Việt Nam? Đâu là những điều kiện cần và đủ để chuyển hóa các cam kết chính trị thành những hành động cụ thể? Bằng cách nào? Do ai thực hiện? Nguồn lực ở đâu? Cần phải có đột phá gì, ở lĩnh vực then chốt nào? Tương lai phát triển của ngành năng lượng Việt Nam sẽ ra sao?

Tại Diễn đàn “Điện gió và mục tiêu Net Zero vào năm 2050”, TS. Nguyễn Linh Ngọc, Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam cho biết, việc chuyển dịch năng lượng của Việt Nam là tất yếu. Việt Nam là nước sẽ chịu nhiều tác động xấu của biến đổi khí hậu, thiên tai, nước biển dâng, cần tham gia với cộng đồng quốc tế chống biến đổi khí hậu và không thể đứng ngoài cuộc. Trong nỗ lực của Việt Nam để đạt được mục tiêu đã cam kết về phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, điện gió là một yếu tố đóng góp chính vào cơ cấu năng lượng. Quy hoạch Điện VIII (PDP8) dự báo rằng không phải điện mặt trời mà là năng lượng điện gió sẽ thúc đẩy giai đoạn tiếp theo của quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo của Việt Nam.

Có thể khẳng định, với mục tiêu phát triển ngành công nghiệp điện gió dài hạn góp phần giảm thiểu hàng triệu tấn carbon từ nhiệt điện, Việt Nam hoàn toàn có thể hiện thực hóa việc trung hòa carbon ngành năng lượng nói riêng và trung hòa carbon nói chung đến 2050, tạo nền móng phát triển ngành công nghiệp điện gió, một giải pháp mang tính dài hạn và chiến lược cho kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

Ông Nguyễn Văn Tiền, Phó Vụ trưởng, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Văn phòng Quốc hội phát biểu tại Diễn đàn.

Với ý nghĩa to lớn đó, Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam đóng góp, chia sẻ các định hướng, giải pháp thực tiễn để tháo gỡ các vướng mắc về quy hoạch, cơ chế chính sách trong việc phát triển năng lượng điện gió, tạo cơ hội để cung cấp một nguồn năng lượng xanh đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Việc phát triển điện gió chính là hướng đi mới, phù hợp với xu thế Thế giới, không gây ô nhiễm môi trường. Đây cũng là một trọng những giải pháp góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh về Biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc lần thứ 26.

Ông Nguyễn Văn Tiền, Phó Vụ trưởng, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Văn phòng Quốc hội cho biết, phát triển nguồn năng lượng tái tạo được xác định rõ tại Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị và đang dần hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng tái tạo, Việt Nam có lợi thế rất quan trọng đối với năng lượng gió, vị trí thuận lợi phát triển đặc biệt là điện gió ngoài khơi giúp chúng ta thoát khỏi phụ thuộc nguồn năng lượng hóa thạch.

Chuyển dịch năng lượng là xu thế tất yếu trong bối cảnh nguồn năng lượng hóa thạch đang ngày càng cạn kiệt và gây tác động không tốt đến môi trường. Với quyết tâm mạnh mẽ trong việc chuyển đổi hướng đi ngành năng lượng, điện gió có vai trò quan trọng trong hệ thống năng lượng tương lai, là chìa khóa để Việt Nam hiện thực hóa các mục tiêu phát triển xanh, bền vững đã đề ra.

Theo TS. Dư Văn Toán, chuyên gia năng lượng tái tạo, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo cho biết, Việt Nam là một trong 10 quốc gia dẫn đầu thế giới về đầu tư vào nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo (điện gió và điện mặt trời).

Đánh giá về sự thay đổi, gia tăng các nguồn điện solar và gió, theo TS. Dư Văn Toán, đến cuối năm 2021 có tổng công suất trên 4.100 MW điện gió. Về định hướng các nguồn điện tại Việt Nam, để hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050, tỷ trọng công suất NLTT sẽ tăng dần: Năm 2020 đạt 25%; 2030 đạt gần 32%, năm 2045 đạt gần 58%.

TS. Dư Văn Toán, chuyên gia năng lượng tái tạo, Viện nghiên cứu biển và hải đảo chia sẻ tại Diễn đàn.

Đối với điện gió ngoài khơi, theo quy hoạch điện VIII vừa được phê duyệt, đến năm 2030, công suất điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu trong nước đạt khoảng 6.000MW, trường hợp công nghệ phát triển nhanh, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý thì quy mô có thể tăng thêm. Định hướng đến năm 2050, đạt 70.000-91.500MW.00 về cấp phép khảo sát NLGNK tại VN, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hoàn thiện xong dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 40/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và Nghị định số 11/2021/NĐ-CP; trong đó, đã bổ sung quy định về hồ sơ, trình tự thẩm định, ban hành văn bản chấp thuận đo đạc, quan trắc, đánh giá tài nguyên biển.

Để phát triển năng lường điện gió, TS. Dư Văn Toán kiến nghị, cần xây dựng khung pháp lý cho NLTT và ĐGNK: Luật NLTT (ĐMT, gió NK, sóng…; Các văn bản nghị định , thông tư quy định về NLTT, ĐGNk, các vấn đề BVMT, Zero cacbon; Tiêu chuẩn quốc gia, Quy định kỹ thuật, chính sách Quản lý rác thải, tái chế, thu gom từ NLTT (tấm pin MT, tuabin gió, tuabin sóng..); lộ trình phát triển dài hạn NLTT, quy hoạch năng lượng, quy hoạch điện, quy hoạch không gian biển dài hạn, gắn với các ngành kinh tế khác.

Hiện nay, còn nhiều vấn đề liên quan khác đến điện gió ngoài khơi cần tháo gỡ như: Quy hoạch không gian biển quốc gia; Quy hoạch không gian cho NLGK (Xung đột, mâu thuẫn, tranh chấp không gian biển của NLTT với các ngành kinh tế khác, dân cư); Tác động đến môi trường, đa dạng sinh học; Chuỗi cung ứng cho phát triển ĐGNK; Vốn , tài chính xanh cho ĐGNK; Hạ tầng cho ĐGNK, cáp ngầm, truyền tải, hớp đồng mua bán điện…); Chính sách Quốc gia dài hạn về ĐGNK (luật, nghị định cấp quốc gia về ĐGNK), cơ quan đầu mối, trình tự cập phép, thẩm định, thu hồi, gia hạn dự án; Sự tham gia của các cty nhà đầu tư nước ngoài; Tích hợp NLGNK và green hydrogen.

Ông Lương Quang Huy, Trưởng phòng Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô zôn, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT) cho biết, cam kết đạt mức Phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050: Thủ tướng Phạm Minh Chính đã phát biểu tại COP 26: Việt Nam là một nước có lợi thế về năng lượng tái tạo, sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có thực hiện các cơ chế theo thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Vào năm 2020, Việt Nam cam kết đến năm 2030 cắt giảm 9% phát thải KNK, và sẽ đạt 27% với hỗ trợ quốc tế. Cam kết này sẽ cần được cập nhật vào năm 2022 để phù hợp với tham vọng đạt phát thải ròng bằng ”0” vào năm 2050.Việc thực hiện các cam kết của Việt Nam tại COP 26 trong việc giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2020: Triển khai thực hiện giảm phát thải khí nhà kính được cụ thể tại các Điều khoản trong chương VII Ứng phó với biến đổi khí hậu. Đồng thời đã có những văn bản hướng dẫn thi hành luật.

Ông Nguyễn Văn Toàn - Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống.

Cụ thể quy định trong Nghị định 06/2022-NĐ-CP.Chiến lược quốc gia về viến đổi khí hậu là nhằm chủ động thích ứng hiệu quả, giảm mức độ dễ bị tổn thương, tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu; giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, đóng góp tích cực và trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trong bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất; tận dụng cơ hội từ ứng phó biến đổi khí hậu để chuyển dịch mô hình tăng trưởng, nâng cao sức chống chịu và cạnh tranh của nền kinh tế.

Tại diễn đàn, đại diện Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT cũng đã chia sẻ những thuận lợi và tiềm năng phát triển điện gió tại Việt Nam. Cụ thể: Tiềm năng kỹ thuật: điện gió ngoài khơi của Việt Nam có thể đạt 31.808 km2 tương đương 162.200 MW (Cơ quan Năng lượng Đan Mạch, DEA, 2020); Giải pháp đột phá nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, giảm phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu, giảm phát thải khí nhà kính; Tạo việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cải thiện đời sống của người dân.

Các địa điểm ngoài khơi để triển khai trang trại điện gió không bị giới hạn, đồng thời ít hoặc không xảy ra xung đột với cộng đồng cư dân; Cấu trúc các tua bin gió ngoài khơi có thể hoạt động như các rạn san hô nhân tạo, thu hút sinh vật biển, tác động tích cực tới hệ sinh thái biển; Đầu tư vào hệ thống truyền tải cũng như điều độ thông minh, điện gió hoàn toàn có thể trở thành nguồn chủ đạo của hệ thống năng lượng Việt Nam trong tương lai

Định hướng phát triển điện gió ngoài khơi, chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2015; Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045.

Bên cạnh những thuận lợi cũng tồn tại nhiều khó khăn, thách thức cần khắc phục thông qua các biểu hiện như: Khó huy động nguồn vốn lớn; tính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ khiến cho dự án trải qua nhiều quy trình và trình tự thủ tục đầu tư….; Quy hoạch không gian biển quốc gia bảo đảm tận dụng được nguồn năng lượng, tránh mâu thuẫn với các ngành kinh tế khác và giảm tác động đến hệ sinh thái biển.

 Còn thiếu quy định về hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển; Chưa có quy định về diện tích khu vực biển chấp thuận cho sử dụng để đo gió, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển đối với từng khu vực biển; Chưa có quy định công suất điện gió tối đa cho một dự án để vừa bảo đảm khuyến khích nhà đầu tư tham gia dự án, vừa bảo đảm cân đối hệ thống truyền tải điện.

 

Hoàng Văn
Ý kiến bạn đọc
Top