Tương truyền chiếc ghe Cà Hâu này được mua từ Lào đem về vào năm 1802.
Về nghi lễ thả Đèn nước, theo truyền thuyết Phật giáo, người Khmer Sóc Trăng tổ chức thả đèn nước dưới sông để cúng dấu chân còn lưu lại của Đức Phật trên sông Na Mi Thi hoặc làm mô hình tháp Mô La Mu Ni - nơi cất giữ búi tóc của Phật Thích Ca trên thượng giới. Nghi lễ này mang ý nghĩa đức Phật hạ giới độ trì chúng sinh, còn người dân thì tạ lỗi với Thần Đất và Thần Nước vì đã bị làm ô uế qua quá trình sản xuất trong năm. Thả đèn nước là hành vi mang tính thiêng hóa nguồn nước, thể hiện một sắc thái văn hóa, trong đó hàm chứa giá trị văn hóa dân gian mang tính nhân văn qua văn hóa ứng xử với nguồn nước, đồng thời phản ánh tính chất đặc thù của nền văn minh lúa nước, gắn chặt với tự nhiên bởi thiên nhiên vừa là nơi che chở, vừa là nơi nuôi dưỡng sự sống của mọi người, góp phần tăng cường ý thức của mọi người trong đó có người Khmer Sóc Trăng trong việc bảo vệ nguồn sống của cộng đồng.
Đèn nước được mô phỏng theo kiến trúc chánh điện chùa, tháp Khmer
Nghi lễ thả đèn nước trong lễ Óoc Om Bóc là hình thức mà người dân muốn bày tỏ lòng tri ân của mình đối với thiên nhiên mà cụ thể là thần Nước, thần Đất. Đồng thời cầu xin sự tha thứ của các Thần về những hành động của con người đã làm tổn hại đến đất, nước, đến môi trường xung quanh. Bởi vì theo quan niệm của người dân, trải qua một năm lao động sản xuất và sinh hoạt hàng ngày, con người đã làm ô uế, tổn hại đến thiên nhiên nên phải làm lễ cúng để tạ lỗi. Mặt khác, thông qua nghi thức lễ thả đèn nước trong lễ hội Óoc Om Bóc, người dân muốn tưởng nhớ đến công ơn của đấng thiên nhiên đã phù hộ cho con người làm ăn sinh sống bình yên và mong muốn điều tốt lành trong năm sau.
Ngày xưa, đèn nước thường được mỗi gia đình làm đơn giản bằng thân và bẹ chuối có gắn vài cờ đuôi nheo, chung quanh cắm đèn cầy (nến), nhang (hương) và các vật cúng như trái cây, bánh kẹo, gạo, muối… rồi thả trôi theo dòng nước sau khi thực hành nghi thức đút cốm dẹp. Dần dà, nghi thức thả đèn nước ít được thực hiện tại nhà mà được tổ chức tập trung tại chùa. Lúc này, đèn nước được làm khung như một chiếc kiệu bằng cây, sau đó đặt các thức cúng như lúa gạo, mắm muối, thịt, trái cây… lên trên, xem đây là lễ vật để tạ ơn Thần Đất, Thần Nước. Sau nghi thức lễ cúng Trăng, đèn nước được rước một vòng phum sóc hoặc sân chùa với sự hộ tống của đội múa trống Sa-dăm và người trong phum sóc, rồi đặt trước chùa. Tiếp đến, các vị sư mang nhang, đèn đến cắm vào chiếc đèn nước và tiến hành nghi thức thả đèn bằng những câu tụng của các vị Achar với nội dung thể hiện lòng tạ ơn Mặt Trăng, Thần Đất, Thần Nước đã giúp đỡ cho con người được sinh tồn đến hôm nay và mong tha thứ lỗi lầm do đã làm ô uế Đất, Nước trong quá trình sản xuất. Sau đó, mọi người cùng rước đèn nước ra ao trong chùa hay con kênh, rạch ở gần chùa để thả cho đèn trôi theo dòng nước.
Ghe Cà Hâu thường làm bằng gỗ độc mộc, có chiều dài và trang trí đèn hoa rực rỡ.
Ngày nay, lễ nghi và đồ cúng trên đèn nước vẫn như ngày xưa, chỉ khác về hình thức là những chiếc bè, kiệu nay được làm mô phỏng theo kiến trúc chánh điện chùa, tháp Khmer và được trang trí rực rỡ, lộng lẫy bằng hoa lá, giấy kiếng bóng và những dây đèn chớp đủ màu, góp phần làm cho chiếc đèn nước tăng thêm nét thẩm mỹ, sinh động, lung linh trên mặt nước…
Cũng trên dòng sông Maspero, bên cạnh những chiêc Đèn nước lung linh còn có sự xuất hiện của những chiêc ghe Cà Hâu mang hình dáng độc đáo, thu hút sự chú ý của du khách gần xa.
Theo các cụ cao niên, ghe cà Hâu (tên khác là Ka hâu) được hiểu là ghe hầu, loại thuyền độc mộc sử dụng cho các vị cao tăng đi tụng kinh, dùng cho Thượng tọa, Đại đức, Người có uy tín ngồi và chỉ đạo các đội ghe thi đấu trong các cuộc đua ghe ngo. Ngoài ra, ghe Cà Hâu còn dùng để chuyên chở lương thực, nước uống, dàn nhạc… phục vụ, tiếp hậu cần cho đội ghe Ngo trong những cuộc đua, đường đua ghe Cà Hâu ngày xưa được cho là làm ghe chở cơm phục vụ vận động viên và là ghe chỉ huy các đội ghe..
Ghe Cà Hâu được làm từ cây thân cây to khoét rỗng. Mỗi chiếc ghe Cà Hâu có kích thước khác nhau, tùy theo kích thước của thân cây nguyên liệu làm nên nó. Ghe thường có chiều dài từ 15 - 20 m, rộng từ 1,5 - 2 m.
Mỗi đèn nước, mỗi ghe Cà Hâu là một biểu tượng.
Ghe Cà Hâu có 4 phần chính: Thân ghe, mui ghe, mũi và đuôi ghe. Phần thân ghe làm từ cây gỗ to; phần mui ghe có trụ đỡ và các mảng vách gỗ ghép lại, có cửa trước, cửa sau và cửa sổ hai bên hông. Mũi ghe Cà Hâu tương tự như mũi ghe Ngo với hình dáng cong vút, nhô cao, nhưng có phần rộng rãi và cứng cáp hơn. Phần đuôi ghe được gắn thêm bánh lái để điều khiển, hỗ trợ cho tay chèo.
Cũng như ghe Ngo, ghe Cà Hâu được trang trí với nhiều họa tiết, hoa văn đặc trưng của đồng bào Khmer. Người được chọn thực hiện công việc này thường là những đôi tay tài hoa, có nhiều năm kinh nghiệm, am hiểu về văn hóa truyền thống. Ghe Cà Hâu là hình ảnh đại diện cho tư duy thẩm mỹ của mỗi ngôi chùa. Do đó, trên chiếc ghe thường được trang trí hình ảnh biểu trưng của nhà chùa. Thời gian vẽ trang trí cho một chiếc ghe Cà Hâu thường kéo dài từ 20 ngày đến 1 tháng. Mỗi chi tiết đều được người thợ chăm chút tỉ mỉ. Sự kết nối giữa những nét vẽ thanh, đậm, sự phối hợp hài hòa giữa các màu sắc làm nên vẻ đẹp rực rỡ cho chiếc ghe. Ghe Cà Hâu không chỉ là phương tiện chuyên chở mà còn là một công trình nghệ thuật, thể hiện tài năng, chứa đựng tâm huyết của những người thợ.
Đèn nước mang hình dáng ngôi chùa.
Ngày nay, ghe Cà Hâu không chỉ có giá trị văn hóa độc đáo trong đời sống tinh thần của đồng bào Khmer, mà còn được xem là biểu tượng của sự ấm no, sung túc của địa phương. Mỗi mùa đua ghe ngo, những chiếc Cà Hâu lại được mang ra trang trí, làm mới, song hành cùng với đèn nước thắp sáng cả đoạn sông Maspero ở thành phố Sóc Trăng khiến du khách ngẩn ngơ. Kể từ năm 2016, ghe Cà Hâu đã được đưa vào trình diễn trong Lễ hội Oóc Om Bóc - đua ghe Ngo tỉnh Sóc Trăng hằng năm.
Trong số này, chiếc ghe Cà Hâu của chùa Tum Núp (xã An Ninh, huyện Châu Thành) là chiếc ghe có tuổi đời cao nhất. Theo đại diện chùa, trước đây chiếc cà hâu này được đặt mua từ Lào và vận chuyển về chùa bằng đường sông Mê Kông hàng trăm năm trước. Các vị đại đức, hòa thượng của chùa kể rằng hồi xưa dùng ghe Cà Hâu này để chở đất xây dựng chùa. Khi có đua ghe Ngo thì ghe Cà Hâu được trang trí đẹp để chở các vị hòa thượng, achar. Chiếc ghe này được đặt mua từ Lào năm 1802 và vận chuyển về chùa bằng đường sông Mê Kông...