Ngành chăn nuôi cần chuyển đổi theo hướng giảm phát thải
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến cho biết, vị trí ngành chăn nuôi hàng năm đóng góp 25 - 26% vào GDP của ngành Nông nghiệp và là một trong những phân ngành nông nghiệp phát triển nhanh nhất, kể cả trong thời kỳ đại dịch COVID-19. Trong 10 năm qua, duy trì mức tăng trưởng từ 4,5 đến 6%. Do vậy, đã từ lâu, ngành chăn nuôi được xác định là một ngành chủ lực, cần phải chuyển dịch từ chăn nuôi quy mô nhỏ sang chăn nuôi tập trung, hàng hóa, quy mô lớn.
Bên cạnh những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, ngành chăn nuôi cũng đặt ra nhiều thách thức cho vấn đề bảo vệ môi trường và phát thải khí nhà kính. Ước tính mỗi năm có trung bình 61 triệu tấn phân và trên 304 triệu m³ nước thải chăn nuôi được thải ra từ các loại vật nuôi chính.
Chăn nuôi thải ra lượng chất thải và khí nhà kính rất lớn.
Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, thực tiễn cho thấy ngành chăn nuôi đã và đang tác động đến môi trường. Nếu chất thải chăn nuôi không được kiểm soát tốt sẽ phát thải gần 15 triệu tấn CO2 mỗi năm. Vì vậy, chăn nuôi thời gian tới cần phát triển theo quy mô công nghiệp, năng suất cao và sản lượng lớn, đồng thời khuyến khích chăn nuôi hộ phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa và chăn nuôi hữu cơ theo mô hình kinh tế tuần hoàn, xây dựng các vùng chăn nuôi tập trung xa khu dân cư thuận lợi cho xử lý môi trường và kiểm soát dịch bệnh.
Những năm qua, ngành chăn nuôi đã sự chuyển biến không chỉ ở tốc độ tăng trưởng nhanh, mà còn ở việc xử lý chất thải chăn nuôi tương đối tốt. Thực hiện chuyển đổi khối lượng rất lớn chất thải rắn được xử lý để tái sử dụng, tái sản xuất phục vụ trở lại cho chăn nuôi: Tạo ra khí sinh học, phân bón phục vụ cây trồng, nuôi giun làm thức ăn chăn nuôi, thức ăn cho thủy sản… Như vậy, không chỉ ngành chăn nuôi phát triển, mà ngành trồng trọt cũng được hưởng lợi, tạo thành một quy trình khép kín, đồng bộ và bền vững.
Dự án Chương trình khí sinh học cho ngành Chăn nuôi được Chính phủ Hà Lan và Tổ chức SVN hỗ trợ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện từ năm 2003 đến năm 2020 với 03 giai đoạn đã mang lại hiệu quả và thay đổi nhận thức rõ rệt trong việc xử lý và tận dụng chất thải, giảm thiểu ô nhiễm, sản xuất năng lượng tái tạo và xây dựng thị trường khí sinh học thương mại, tín chỉ carbon.
Ông Mark Tattersall, Phó Đại sứ Australia tại Việt Nam bày tỏ niềm tự hào về mối quan hệ hợp tác giữa Chính phủ Australia và Chính phủ Việt Nam trong nỗ lực cùng tham gia và cam kết cắt giảm phát thải khí metan toàn cầu với mục tiêu giảm ít nhất 30% đến năm 2030 so với mức năm 2020.
Sáng kiến BeCA nằm trong khuôn khổ Nền tảng Đối tác Doanh nghiệp (BPP) của Chính phủ Australia, với các đối tác là Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV), Công ty cổ phần Công nghệ EGreen, Tổ chức Nexus…. Sự hợp tác trong nền tảng này góp phần tạo ra những tác động phát triển và bền vững cho nền chăn nuôi Việt Nam.
“Các giải pháp về công nghệ hiệu quả với chất lượng dịch vụ tốt cung cấp cho các trang trại chăn nuôi sẽ giúp chuyển đổi khí biogas thành điện, tiết kiệm chi phí điện năng, cải thiện chất lượng môi trường cũng như hướng tới nên nông nghiệp tuần hoàn”, ông Mark Tattersall nhấn mạnh.
Quá trình chuyển dịch năng lượng sạch tại Việt Nam là sáng kiến mới. Biến những chất thải từ chăn nuôi thành điện cũng như giảm phát thải khí methan để đạt hiệu quả về kinh tế, chất lượng cũng như tiếp cận toàn diện để hướng tới nông nghiệp tuần hoàn.
"Nếu lượng phát thải khí nhà kính cắt giảm có thể được lượng hóa cũng như thương mại sẽ trở thành nguồn thu đáng kể cho người nông dân", ông Mark Tattersall chia sẻ, đồng thời cam kết hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc đạt được các cam kết về khí hậu cũng như là chuyển dịch năng lượng với mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Giảm sử dụng protein thực vật
Các chuyên gia đều cho rằng, chăn nuôi phát thải lượng khí nhà kính rất lớn; trong đó phần lớn là từ quá trình hô hấp, tiêu hóa và chất thải của vật nuôi. Do đó, cần chuyển đổi thành phần thức ăn chăn nuôi, giảm sử dụng protein thực vật (chủ yếu là đậu tương), tăng sử dụng các nguyên liệu thức ăn ít phát thải khí nhà kính…
Theo Hội Chăn nuôi Việt Nam, hiện tổng đàn lợn của cả nước là 25,549 triệu con; trong đó, đàn lợn nái là 3 triệu con. Việt Nam là quốc gia có ngành chăn nuôi lợn đứng thứ 5 về đầu con và thứ 6 về sản lượng thịt. Mỗi năm, có khoảng 11 triệu tấn thức ăn dành cho lợn được sản xuất, chiếm khoảng 56% cơ cấu ngành thức ăn chăn nuôi.
Các yếu tố ảnh hưởng đến khí phát thải trong chăn nuôi là sử dụng điện và năng lượng trong các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi; sử dụng điện và năng lượng trong khâu chăn nuôi, ấp nở... và quá trình hô hấp, tiêu hóa và chất thải của vật nuôi. Đây là yếu tố lớn nhất gây hiệu ứng khí phát thải nhà kính trong chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi gia súc ăn cỏ, sau đó đến chăn nuôi lợn.
Một trong những bài toán nan giải nuôi lợn hiện nay là không chỉ cung cấp đủ dinh dưỡng cho vật nuôi với một chi phí tối ưu nhất, mà còn phải thân thiện với môi trường; trong đó, protein thô là nguyên liệu có chi phí cao thứ 2 trong công thức thức ăn cho lợn.
Do đó, việc giảm bớt hàm lượng protein thô trong thức ăn chăn nuôi lợn không chỉ đem lại nhiều lợi ích về kinh tế, môi trường mà còn cải thiện phúc lợi cũng như sức khỏe vật nuôi.
Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam cho biết, hiện nay đã có một số doanh nghiệp đang tự nguyện áp dụng công nghệ và thiết bị kiểm soát chỉ số carbon trong các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi.
Nhiều trang trại lớn đã xử lý chất thải chăn nuôi bằng công nghệ biogas, đệm lót sinh học nhằm giảm ô nhiễm môi trường và giảm khí phát thải nhà kính do chất thải chăn nuôi gây ra. Phần nhiều các cơ sở chăn nuôi này là thuộc lĩnh vực chăn nuôi bò sữa, chăn nuôi lợn công nghiệp khép kín, như THmilk, Vinamilk, CP, Mavin…
Ông Nguyễn Xuân Dương cho biết thêm, nhằm thực hiện cam kết đạt Net Zero vào năm 2050, thì chăn nuôi cũng như mọi lĩnh vực khác sẽ phải thực hiện tiến trình giảm phát thải khí nhà kính.
Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone; trong đó, có quy định những cơ sở sản xuất, kinh doanh có lượng khí phát thải từ 3.000 tấn CO2/năm hoặc từ 65.000 tấn chất thải/năm thì thuộc diện phải kiểm kê khí nhà kính.
Nếu theo quy định này thì hiện nay ở Việt Nam sẽ có khoảng trên 4.200 cơ sở chăn nuôi có quy mô 1.000 con trâu, bò hoặc 3.000 con lợn có mặt thường xuyên phải thuộc diện phải kiểm kê khí nhà kính từ năm 2024.
"Giải pháp sử dụng khẩu phần thức ăn dinh dưỡng hợp lý và bổ sung các chế phẩm nhằm hạn chế khí phát thải của vật nuôi cũng đã bắt đầu được tiếp cận trong vài năm trở về đây nhưng chủ yếu ở giai đoạn nghiên cứu khoa học, còn việc sử dụng trong đại trà sản xuất thì vẫn đang còn ở mức độ chừng mực," ông Nguyễn Xuân Dương nói.
Về vấn đề này, bà Ninh Thị Len, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam cho hay, trong chăn nuôi có 2 loại khí nhà kính chủ yếu được phát thải là khí mêtan (CH4) và khí ôxit nitơ (N2O).
Theo tính toán của các nhà khoa học, 1 tấn khí CH4 gây hiệu ứng khí nhà kính tương đương với 28 tấn CO2 và 1 tấn khí N2O gây hiệu ứng khí nhà kính tương đương với 265 tấn CO2. Thành phần protein luôn có khí nitơ, nên khi tiêu hóa thức ăn này, vật nuôi sẽ thải ra nhiều khí N2O.
Để sinh trưởng, phát triển, vật nuôi cần một lượng lớn nitơ để tích luỹ. Nitơ vào qua đường thức ăn được tiêu hoá hấp thu qua đường ruột, phần nitơ không tiêu thụ được bài tiết qua phân và nước tiểu. Sự bài tiết nitơ của vật nuôi liên quan nhiều đến khẩu phần ăn vào.
Do vậy, để giảm tổn thất nitơ trong chăn nuôi là chế biến làm tăng tỷ lệ tiêu hoá thức ăn nói chung và nitơ nói riêng. Giải pháp giảm khí nhà kính thông qua dinh dưỡng thức ăn cho lợn chủ yếu là để giảm giảm lượng nitơ thải ra trong chất thải của vật nuôi, từ đó gián tiếp giảm khí N2O. Hiện tại, chăn nuôi ở châu Âu đang chú trọng giải pháp này.
Cần chính sách hỗ trợ hợp lý
Để giảm phát thải trong chăn nuôi, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam Nguyễn Xuân Dương kiến nghị, xử lý chất thải và kiểm soát khí nhà kính trong chăn nuôi là vấn đề quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích cộng đồng và chống biến đổi khí hậu toàn cầu, cần phải được doanh nghiệp, người chăn nuôi tự giác và chủ động thực hiện.
Cùng với đó, xử lý chất thải và kiểm soát khí nhà kính trong chăn nuôi đòi hỏi công chi phí lớn, rất cần Nhà nước có chính sách hỗ trợ về đất đai cho chăn nuôi tập trung, tuyên truyền nâng cao nhận thức, phổ biến công nghệ phù hợp cho các loại hình chăn nuôi và có tín dụng ưu đãi cho người chăn nuôi vay đầu tư áp dụng công nghệ phù hợp, hiệu quả.
Trong thời gian này, Nhà nước cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền, đào tạo cán bộ kỹ thuật chuyên môn, chính sách để nâng cao năng lực quản lý và ứng dụng các công nghệ trong xử lý chất thải, kiểm kê và kiểm soát khí nhà kính trong chăn nuôi, đảm bảo đến khi Nhà nước đưa các cơ sở chăn nuôi vào diện phải kiểm kê khí nhà kính, thì mọi yếu tố đã được chuẩn bị sẵn sàng
Tiến sỹ Ninh Thị Len cũng cho rằng, các cơ quan, tổ chức cần tăng cường tuyên truyền để người sản xuất thức ăn chăn nuôi hiểu được trách nhiệm và quyền lợi về giảm khí nhà kính trong quá trình sản xuất thức ăn chăn nuôi lợn nói riêng, chăn nuôi nói chung.
Xây dựng phương pháp tiêu chuẩn để đo phát thải khí nhà kính phù hợp với từng loại hình sản xuất để làm công cụ xác định lượng phát thải thực tế. Nhà nước có chính sách hỗ trợ để khuyến khích áp dụng các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính đối với những đơn vị tiên phong đi đầu.
Tiến sỹ Ninh Thị Len cho rằng, để hạ giá thành thức ăn chăn nuôi, Việt Nam cần triển khai tốt Nghị định hỗ trợ đầu tư phát triển chăn nuôi bền vững, Đề án phát triển công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi giai đoạn 2021-2030.
Nhà nước cần ban hành chính sách giảm thuế khô dầu đậu tương từ 3% về 0%, vì đây là nguyên liệu nhập khẩu hoàn toàn, trong nước không sản xuất được. Cần tiếp tục nghiên cứu chuyển đổi một phần diện tích đất trồng trọt sang trồng ngô, sắn và trồng cỏ, ngô sinh khối làm thức ăn chăn nuôi.
Cần phát triển sản xuất thức ăn giàu đạm từ côn trùng như ruồi lính đen, giun trùn quế, tảo biển để thay thế một phần nguyên liệu Protein từ đậu tương. Quy hoạch cơ sở chế biến thủy sản, giết mổ gia súc, gia cầm… để tạo điều kiện cho việc thu gom và chế biến các nguồn phụ phẩm làm thức ăn chăn nuôi.
Nhà nước cần khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ sản xuất các nguyên liệu trong nước có lợi thế như chế phẩm probiotic, enzym, thảo dược, các loại khoáng đa lượng (bột đá, MCP, DCP…), khoáng vi lượng (CuSO4, FeSO4…) và các loại thảo dược.
Nhà nước cũng cần xây dựng phương pháp tiêu chuẩn để đo phát thải khí nhà kính phù hợp với từng loại hình sản xuất để làm công cụ xác định lượng phát thải thực tế./.