Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024  
Thứ hai, ngày 26 tháng 6 năm 2023 | 12:0

Việt Nam - Na Uy hợp tác nuôi trồng thủy sản trên biển

Việt Nam và Na Uy đã hợp tác trong lĩnh vực thủy sản gần 40 năm, hiện có hơn 10 doanh nghiệp Na Uy đang hoạt động tại Việt Nam trong lĩnh vực phát triển con giống, cung cấp phương tiện và giải pháp công nghệ cho hoạt động nuôi biển công nghiệp, thức ăn cho cá, chế biến cá hồi, chế biến phụ phẩm thủy sản, sản xuất thiết bị và xuất khẩu hải sản.

Hỗ trợ lẫn nhau

Theo Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Na Uy Erling Rimestad, xuất khẩu thủy sản Na Uy đứng thứ hai trên thế giới và Việt Nam đứng thứ ba.

“Chúng ta đang là những quốc gia xuất khẩu thủy sản hàng đầu nhưng không vì thế mà trở thành đối thủ cạnh tranh với nhau, thực tế là chúng ta bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Na Uy xuất khẩu các loài như cá hồi, cá tuyết, cua hoàng đế và tôm từ biển. Việt Nam là nhà cung cấp lớn cá tra và tôm nuôi”, ông Erling Rimestad nói.

Dẫn số liệu từ Hội đồng Thủy sản Na Uy, ông Erling Rimestad ví xuất khẩu thủy sản của Na Uy tương đương với 40 triệu bữa ăn mỗi ngày trong năm, được phục vụ ở gần 150 quốc gia.

“Tôi không biết có bao nhiêu bữa ăn trong số đó được phục vụ ở Việt Nam, nhưng tôi biết rằng, Việt Nam có mức tiêu thụ hải sản cao nhất thế giới, với 37kg/người/năm. Người Na Uy cần cố gắng theo cho kịp, bởi chúng tôi chỉ ăn 19,5kg/năm. Chúng ta nên ăn nhiều hải sản hơn”, ông Erling Rimestad chia sẻ.

Nuôi biển công nghiệp, chưa có trong hệ thống đào tạo chính quy của Việt Nam

Tại Hội thảo “Na Uy - Việt Nam: Thúc đẩy hợp tác trong nuôi trồng thủy sản trên biển”, bà Bùi Thị Ninh, Giám đốc Văn phòng Giới sử dụng lao động của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - Chi nhánh tại TP.HCM cho biết, điều kiện biển và khí hậu nước ta rất phù hợp với phát triển nuôi biển công nghiệp.

Tuy nhiên, có một số khó khăn, thách thức như kỹ thuật trong sản xuất giống hạn chế, quy mô nhỏ; công nghệ nuôi, hệ thống lồng còn chưa phát triển...

Đặc biệt, nhân lực phục vụ kinh tế biển nói chung và nuôi biển công nghiệp còn đang thiếu hụt, đồng thời kỹ thuật sản xuất của lao động đa số còn ở trình độ thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.

Theo bà Ninh, bộ môn nuôi biển công nghiệp chưa có trong hệ thống đào tạo chính quy. 

“Do đó, cần xây dựng mô hình đào tạo theo sự dẫn dắt của ngành để đáp ứng nhu cầu lao động của thị trường. Thiết lập cơ chế hợp tác giữa Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp trong phát triển nguồn nhân lực. Thúc đẩy tính chủ động của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình đào tạo. Xây dựng đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao, có kiến thức và kỹ năng đáp ứng nhu cầu thực tiễn của ngành, có nền tảng vững chắc để đào tạo nâng cao trong quá trình làm việc”, bà Ninh đề xuất.

Đầu tư công nghệ để tiết kiệm nhân lực

Hiện nay, nuôi trồng thủy sản là một trong những ngành xuất khẩu lớn nhất của Na Uy (chiếm 17% GPD), chỉ sau dầu mỏ và khí đốt. Ngành này đã trở thành ngành công nghiệp với năng suất cao và chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, tạo công ăn việc làm cho hơn 8.000 người trong cộng đồng cư dân sinh sống ven biển. Đổi mới sáng tạo và phát triển những loại hình công nghệ mới là chìa khóa đảm bảo sự thành công trong tương lai. Việc nghiên cứu và phát triển các quy trình sản xuất mới, bền vững hơn có thể diễn ra trong toàn bộ chuỗi giá trị, trong đó phải kể tới vai trò then chốt của khu vực tư nhân. Sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ, ngành công nghiệp và giới nghiên cứu là yếu tố quan trọng dẫn tới sự thành công của ngành nuôi trồng thủy sản Na Uy. Vì thế, công nghệ và tính bền vững hiện đang trở thành xu thế chung chiếm lĩnh toàn ngành.

Hiện tại, ngành nuôi biển công nghiệp thiếu nhân lực chất lượng cao. Ảnh: Minh Chiến.

Tại hội thảo, ông Josh Goldman, Tổng giám đốc Công ty TNHH Thủy sản Australis Việt Nam cho biết, Việt Nam đã phát triển được ngành nuôi trồng thủy sản rất thành công.

Tuy nhiên, người nông dân có truyền thống tập trung vào sản xuất tôm, cá giá trị thấp trong các ao trên đất liền.

“Đã đến lúc phải nhìn ra biển, nuôi biển bền vững được xác định là ngành xuất khẩu nhiều tỉ đô la tiếp theo của Việt Nam. Kết hợp giữa công nghệ và chính sách đúng đắn sẽ hỗ trợ việc chuyển đổi theo hướng sản xuất giá trị cao, ít tác động tới môi trường.

Ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam tạo ra sản lượng cao gấp gần 3 lần so với Na Uy, nhưng giá trị của sản phẩm lại chỉ bằng một nửa.

Nói một cách khác, ngành nuôi trồng thủy sản của Na Uy đã đạt được hiệu quả kinh tế cao với sản lượng nhỏ, một con đường mà cho đến nay vẫn khác biệt so với Việt Nam”, ông Josh Goldman so sánh.

Ông Audun Sivertsen Fjeldvaer, Tổng giám đốc Công ty ScaleAQ Seabased (chuyên về thiết bị, công nghệ nuôi biển), nhấn mạnh, yếu tố quan trọng nhất là đầu tư công nghệ để tiết kiệm được nhân lực, đảm bảo an toàn sinh học cho trại nuôi; đồng thời tiết kiệm chi phí khi làm trang trại nuôi nhỏ nhưng hiệu quả cao.

Chia sẻ kinh nghiệp nuôi trồng thủy sản của Na Uy, bà Anne B. Osland, Vụ trưởng Vụ Cấp phép nuôi trồng (Cục Quản lý nuôi trồng và Vùng bờ, Tổng cục Thủy sản Na Uy), cho biết, việc triển khai quy hoạch thành công vùng ven bờ cũng như xây dựng bản đồ không gian biển và cấp phép nuôi trồng thủy sản hiệu quả, minh bạch là “chìa khóa” phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển.

Cũng theo bà Anne B. Osland, hiện nay tất cả hoạt động nuôi trồng thủy sản phải được Na Uy cấp phép mới được nuôi. Chính phủ bỏ tiền cho các viện, trường nghiên cứu trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, kèm theo trách nhiệm chia sẻ về công nghệ, nghiên cứu mới cho cộng đồng.

Bên cạnh đó, cộng đồng người nuôi cũng đã thành lập một quỹ dành cho nghiên cứu trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và Hội đồng nghiên cứu Na Uy cũng tập trung vào nghiên cứu trong lĩnh vực này.

Ngoài ra, yếu tố phát triển các loại vaccine để phòng bệnh cho thủy sản nuôi cũng rất quan trọng, bởi trong quá trình nuôi không phải lúc nào cũng thuận lợi. Điển hình như những năm 1987, 1988, 1990, Na Uy cũng bị tác động lớn về sản lượng do ảnh hưởng dịch bệnh. Do đó, bài học kinh nghiệm của Na Uy rút ra là, ngoài phát triển vaccine thì nguồn cung ứng con giống chất lượng cũng rất quan trọng.

Nhiều thách thức

Tại hội thảo, ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và PTNT) chỉ ra rằng: “Mặc dù có nhiều tiềm năng to lớn để phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên biển, nhưng Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức trong phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên biển, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, máy móc thiết bị còn đơn giản và thiếu lao động có trình độ cao,...

Với đường bờ biển dài, Việt Nam và Na Uy có nhiều điểm tương đồng và nhiều mối quan tâm chung. Vì vậy, nghiên cứu kinh nghiệm và bài học thành công của Na Uy sẽ đưa ra những gợi ý giúp chúng tôi giải quyết các khó khăn hiện tại cũng như xây dựng được các chính sách phù hợp để phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên biển mạnh mẽ và bền vững hơn”.

Đồng quan điểm, bà Anne B. Osland nhấn mạnh, trong xu thế chuyển dịch sang các hoạt động nuôi trồng bền vững, để tiếp tục phát triển, ngành nuôi trồng thủy sản của Na Uy buộc phải chú trọng tới các quy trình bền vững. Khởi điểm là phải có quy hoạch và chính sách hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ngành.

Hiện, Việt Nam đang triển khai Đề án Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 4/10/2021 nhằm phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển một cách đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và thân thiện với môi trường, tạo ra các sản phẩm có thương hiệu đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho cộng đồng cư dân ven biển. Giảm khai thác, tăng nuôi trồng cũng được Bộ Nông nghiệp và PTNT coi là chính sách giúp cân bằng giữa nhu cầu của con người với bảo tồn tài nguyên biển và phát triển bền vững. Vì vậy, chuyển đổi sang nuôi xa bờ, phát triển nuôi cá quy mô công nghiệp, hướng tới xuất khẩu, nâng cao chất lượng và giá trị thủy sản Việt Nam sẽ là xu hướng tất yếu.

Theo Cục Thủy sản, tính đến hết năm 2022, cả nước có gần 7.500 cơ sở nuôi biển, với gần 250.000 lồng/bè. Diện tích nuôi biển đạt 85.000ha (chưa tính hơn 200.000 ha nuôi xen ghép các đối tượng khác), tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 23%/năm với gần 9 triệu m³ lồng, gồm 4 triệu m³ lồng nuôi cá biển và 5 triệu m³ lồng nuôi tôm hùm. Tổng sản lượng nuôi biển đạt 750.000 tấn, tăng 10,7% so với năm 2021.

 

Chanh
Ý kiến bạn đọc
Top