Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ hai, ngày 6 tháng 5 năm 2024  
Thứ ba, ngày 8 tháng 8 năm 2023 | 9:43

Nông nghiệp chưa phải bàn đến vấn đề điều chỉnh mục tiêu nhưng cần "liều thuốc" tăng cạnh tranh

“Dù thị trường khó khăn nhưng xuất khẩu nông sản vẫn có những điểm sáng nhất định, củng cố quyết tâm giữ vững mục tiêu 54-55 tỷ USD trong năm nay”.

Giá gạo xuất khẩu tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước - Ảnh minh họa

Nhận định về các lĩnh vực xuất khẩu của Bộ NN&PTNT, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định, đến giờ này, ngành nông nghiệp chưa phải bàn đến vấn đề điều chỉnh mục tiêu. Mặc dù thị trường có nhiều khó khăn, tuy nhiên, bên cạnh những thách thức, ngành nông nghiệp vẫn có những điểm sáng như xuất khẩu rau quả 7 tháng đầu năm tăng mạnh tới 68% đạt 3,21 tỷ USD, cà phê và lúa gạo cũng đều ghi nhận những mức tăng tích cực.

Quyết tâm giữ vững mục tiêu 54-55 tỷ USD

“Dù thị trường khó khăn nhưng xuất khẩu nông sản vẫn có những điểm sáng nhất định, củng cố quyết tâm giữ vững mục tiêu 54-55 tỷ USD trong năm nay”.

Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phùng Đức Tiến về mục tiêu xuất khẩu nông sản Việt Nam trong năm 2023Theo thông tin từ Bộ NN&PTNT, kế hoạch gieo cấy năm 2023 là 7,1 triệu ha, sản lượng dự kiến đạt trên 43 triệu tấn tăng 1,8 - 2% so với năm 2022.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết: Việt Nam đang có nhiều cơ hội thuận lợi ở ngành xuất khẩu gạo, “Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo là cơ hội cho gạo Việt Nam, trong khi gạo Việt có chất lượng cao, giá trị cao, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long”. Giá gạo Việt Nam hiện đang cao hơn Thái Lan, Ấn Độ là thuận lợi lớn cho Việt Nam thực hiện mục tiêu xuất khẩu gạo thu về 4,1 tỷ USD.

Tuy nhiên, ông cũng lưu ý, lúc khó khăn hoạn nạn có cộng đồng doanh nghiệp nên lúc này phải có sự chia sẻ nhất định mới đảm bảo sự phát triển bền vững.

"Đây là vừa là tình thế thời cơ, vừa chớp cơ hội nhưng cũng có sự chia sẻ. Trong bao năm qua, Việt Nam đảm bảo an ninh lương thực trong nước, khu vực và thế giới. Chúng ta cần vừa đảm bảo sự tăng trưởng, vừa đảm bảo chia sẻ với cộng đồng, chia sẻ với khu vực và thế giới", Thứ trưởng Tiến chia sẻ.

Về cơ sở nắm bắt cơ hội thị trường, Thứ trưởng cho biết, giống lúa Việt Nam đạt 85%, gạo đạt 89% chất lượng cao, các vụ lúa gạo chỉ canh tác trong 3 tháng. Bên cạnh đó, Việt Nam đang xây dựng Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Đại diện Bộ NN&PTNT cũng cho biết tới đây Bộ sẽ có những kế hoạch giám sát, quy hoạch và sử dụng chế phẩm sinh học, bảo đảm thắng lợi mùa vụ cũng như mở rộng một phần diện tích.

Đây là cơ sở thực tiễn và khoa học để khẳng định có một vùng canh tác thắng lợi đảm bảo cung cấp lương thực trong nước, dự trữ, làm giống và chế biến xuất khẩu.

Tuy vậy, “xuất khẩu gạo, ngoài khâu sản xuất của Bộ NN&PTNT và Sở NN&PTNT các địa phương còn có Bộ Công Thương và các ban, ngành liên quan. Trong đó có sự phân định giải pháp và trách nhiệm của các bên. Do đó, cần sự vào cuộc, phối hợp chặt chẽ của các bên liên quan để đảm bảo không bỏ lỡ cơ hội vàng xuất khẩu gạo năm 2023”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến chia sẻ.

Một tin vui khác nữa, cũng theo đại diện Bộ NN&PTNT thì bên cạnh mặt hàng gạo thì thủy sản và lâm nghiệp cũng là 2 ngành chủ lực của Việt Nam. Với tốc độ giảm liên tiếp từ đầu năm đến nay, trong 7 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản đạt 4,95 tỷ USD, giảm 25,4%; xuất khẩu lâm nghiệp đạt 7,79 tỷ USD, giảm 25,5%.

Chia sẻ về tháo “nút thắt” này, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho biết: Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời nhận định đúng đắn về thị trường, tháo gỡ thông qua việc tổ chức làm việc với 2 hiệp hội là VASEP và VIFORES. Từ đó đưa ra nhiều giải pháp nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc, đặc biệt về vốn và dư lợi tín dụng. Gói hỗ trợ 15.000 tỷ đồng đang được triển khai là cơ sở giúp 2 ngành giảm bớt sức ép trong sản xuất.

Thứ trưởng NN&PTNT cũng thông tin về tín hiệu tích cực từ thị trường ngành thủy sản khi cả cá tra và tôm đều có những kết quả đáng mừng. Ông cũng cho biết hiện hàng tồn kho thủy sản trên thế giới đã giảm nên Việt Nam cần phải tăng cường dự trữ để khi thời cơ đến có thể chủ động nắm bắt.

Đến thời điểm này, xuất khẩu cá tra Việt Nam vào Mỹ đạt trên 50% sản lượng, tuy nhiên Mỹ đang ép giá cá tra của Việt Nam.

Nhận định về các lĩnh vực xuất khẩu của Bộ NN&PTNT, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định, đến giờ này, ngành nông nghiệp chưa phải bàn đến vấn đề điều chỉnh mục tiêu. Mặc dù thị trường có nhiều khó khăn, tuy nhiên, bên cạnh những thách thức, ngành nông nghiệp vẫn có những điểm sáng như xuất khẩu rau quả 7 tháng đầu năm tăng mạnh tới 68% đạt 3,21 tỷ USD, cà phê và lúa gạo cũng đều ghi nhận những mức tăng tích cực.

Liên kết thực chất và cùng phát triển

Tranh mua tranh bán, “bẻ kèo”, cạnh tranh theo lối văn hóa thương mại kém của nội bộ doanh nghiệp với nhau, nghịch lý xuất khẩu tăng nhưng thua lỗ nhiều, rồi tỷ lệ chế biến, chế biến sâu còn hạn chế. Những vấn đề này đã và đang ảnh hưởng đến sức mạnh của ngành hàng nông lâm thủy sản Việt Nam khi xuất khẩu, đòi hỏi cần “liều thuốc” đúng chỗ ở 2 điểm yếu là khâu liên kết và chế biến để cải thiện tình hình.

Xuất khẩu nông sản lạc quan với mục tiêu 55 tỷ USD.

Liên quan giá gạo xuất khẩu (XK) tăng vọt trong những ngày gần đây, theo phản ánh của doanh nghiệp (DN) là có tình trạng tranh mua tranh bán, “bẻ kèo”, không tôn trọng các hợp đồng đã thoả thuận…, đang gây khó khăn cho việc thua mua và XK gạo.

Điều này khiến các DN, nhà máy chế biến gạo không nhận được lượng hàng hoá đã chốt, dù giao dịch trước đó chỉ 1-2 ngày. Không chỉ vậy, kể cả DN liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa với nông dân cũng không nhận được hàng do tình trạng nông dân, thương lái bỏ cọc để bán ra bên ngoài với giá cao hơn.

Không chỉ thế, là chủ một DN hàng đầu về XK gạo chất lượng cao, ông Phạm Thái Bình, Tổng giám đốc CTCP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An, đã từng cảnh báo tình trạng cạnh tranh theo lối văn hoá thương mại kém của nội bộ DN Việt với nhau (chẳng hạn như khi XK thì hạ giá xuống để giành khách hàng).

Và trước tình trạng tranh mua, tranh bán của các DN XK như vậy có thể sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của cả ngành hàng lúa gạo dù cho XK gạo đang có những cơ hội tốt.

Hoặc như với ngành điều, dù hoạt động XK từ đầu năm đến nay tăng trưởng về sản lượng lẫn kim ngạch, nhưng các DN trong ngành vẫn cảm thấy bất an trước tình hình giá XK có chiều hướng đi xuống (giá XK nhân điều bình quân trong 6 tháng đầu năm 2023 chỉ đạt khoảng 5.717 USD/ tấn, giảm 1,73% so với cùng kỳ năm ngoái).

Điều đáng nói, có nhiều DN chế biến XK hạt điều đang gặp phải tình trạng tranh nhau mua điều thô với giá quá cao. Trong khi đó, trước những biến động kéo dài trên thị trường thế giới, để thoát hàng, nhiều DN thiếu đoàn kết, cạnh tranh nhau, đạp giá nhau nên bị người mua ép bán với giá rẻ, dẫn đến giá bán đầu ra thấp hơn đầu vào, gây ra thua lỗ nặng, càng XK nhiều càng thua lỗ.

Nghịch lý XK tăng, thua lỗ nhiều của các DN ngành điều còn nằm ở nguyên do là vì không xoay xở được dòng vốn, áp lực lãi suất ngân hàng để đầu tư nhà máy, kho bãi, chi phí cao… nên họ phải chấp nhận xuất bán sản phẩm chế biến với giá rẻ hơn so với giá nguyên liệu đầu vào.

Hay như với ngành hàng trái cây. Tại phiên chất vấn mới đây về lĩnh vực nông nghiệp ở HĐND của một tỉnh ở vùng Đông Nam Bộ, có đại biểu đặt vấn đề mặc dù XK trái cây tươi tăng trưởng tốt nhưng kết quả thực hiện xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, xuất xứ, quy trình sản xuất tập trung nông sản sạch của tỉnh thời gian qua như thế nào? Các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tiêu thụ nông sản ra sao?

Trả lời cho vấn đề trên, vị giám đốc Sở NN&PTNT thừa nhận tồn tại mang tính cố hữu của nền nông nghiệp Việt Nam nói chung, của địa phương nói riêng là sản xuất còn mang tính manh mún, nhỏ lẻ.

Theo đó, ở tỉnh này chỉ có khoảng 20% diện tích cây trồng trên địa bàn sản xuất tập trung và nằm trong các chuỗi liên kết, 80% vẫn sản xuất nhỏ lẻ. Hệ lụy là khó kiểm soát được quy trình chất lượng và không chuyên nghiệp trong tiếp cận thị trường. Đầu ra của trái cây tươi chủ yếu dựa vào thương lái và tình trạng được mùa, mất giá chủ yếu tập trung ở khu vực này.

“Liều thuốc” tăng sự cạnh tranh

Ngoài những vấn đề như vậy, khâu chế biến vẫn còn là mặt hạn chế của ngành hàng nông sản Việt. Theo báo cáo mới đây của Bộ NN&PTNT, cả nước hiện có khoảng 13.000 cơ sở chế biến nông sản, gồm 614 cơ sở giết mổ tập trung, 5.229 cơ sở thu gom, sơ chế, chế biến thực phẩm nông, lâm, thủy sản (đa ngành); 3.369 cơ sở sơ chế, chế biến sản phẩm có nguồn gốc thực vật, gần 4.000 cơ sở sơ chế, chế biến sản phẩm có nguồn gốc động vật trên cạn.

Chế biến tôm phục vụ nhu cầu xuất khẩu. 

Tuy nhiên, tỷ lệ chế biến, chế biến sâu còn hạn chế. Đơn cử như cà phê chế biến sâu chỉ chiếm khoảng 15%, rau quả chế biến 10% (còn lại tiêu thụ tươi), điều và tiêu chế biến sâu 10-15%.

Còn với ngành hàng thủy sản, tổng số cơ sở chế biến thủy sản quy mô công nghiệp gắn với XK là hơn 850 cơ sở; tổng số cơ sở quy mô nhỏ phục vụ tiêu thụ nội địa khoảng 3.500 cơ sở; tổng sản phẩm thủy sản chế biến đạt khoảng 3 triệu tấn (tương đương khoảng 6 triệu tấn nguyên liệu/năm).

Sản phẩm thủy sản chủ yếu là đông lạnh (chiếm 80%), sản phẩm khô (7%), sản phẩm dạng mắm (5%), sản phẩm khác (8%)... Giá trị sản phẩm chế biến tăng bình quân 5,1%/năm.

Theo Bộ NN&PTNT, sản phẩm chế biến trong ngành hàng nông lâm thủy sản chủ yếu vẫn là sản phẩm sơ chế có giá trị gia tăng thấp chiếm 70 - 85%, sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao chiếm khoảng 15 - 30% tùy lĩnh vực, nên việc nâng cao giá trị hàng nông sản Việt Nam thông qua chế biến chưa cao.

Bộ NN&PTNT cho rằng, liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị sản xuất - chế biến - tiêu thụ của các ngành hàng nhìn chung thiếu chặt chẽ, ngoại trừ một số DN, tập đoàn, công ty lớn có năng lực đã liên kết tốt với nông dân, tổ chức tốt khâu chế biến gắn với sản xuất nguyên liệu trong chuỗi mía đường, cá tra, tôm nuôi...

Từ những hạn chế về tính liên kết và khâu chế biến như vậy để thấy “liều thuốc” giúp tăng sức mạnh, tăng sức cạnh tranh cho ngành hàng nông sản Việt trong thời gian tới cần “đúng liều” vào 2 điểm yếu này.

Riêng với “liều thuốc” liên kết, đứng ở góc độ của một DN trong ngành hàng thủy sản, Ts. Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT CTCP thực phẩm Sao Ta (FMC) cho rằng, sự liên kết trong chuỗi ngành hàng để nhằm giảm giá thành là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, sự liên kết này cần thực chất mới có hiệu quả, còn nếu liên kết hình thức thì chỉ tốn công. "Liên kết thực chất là biết chia sẻ giá trị chung tạo ra, cùng tồn tại cùng phát triển", ông Lực nói./.

 

 

Thanh Tâm (t/h)
Ý kiến bạn đọc
Top