Sự tăng trưởng và phát triển của ngành chăn nuôi kéo theo sự gia tăng về lượng chất thải, dẫn đến ô nhiễm không khí, nguồn nước và môi trường khiến người dân phải lập chốt chặn đường vì ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống, sản xuất. Vậy đâu là giải pháp để xử lý chất thải chăn nuôi hiệu quả?
Một số quy định mới về xử lý chất thải chăn nuôi
Năm 2018, Luật chăn nuôi ra đời, trong đó xử lý chất thải chăn nuôi được quy định rõ tại mục 2 chương 4. Điều 59, Luật Chăn nuôi quy định đối với chăn nuôi trang trại, chất thải chăn nuôi bao gồm chất thải rắn có nguồn gốc hữu cơ, nước thải chăn nuôi, khí thải và chất thải khác.
Việc xử lý chất thải rắn có nguồn gốc hữu cơ đối với chăn nuôi trang trại được quy định tổ chức, cá nhân sở hữu cơ sở chăn nuôi trang trại có trách nhiệm xử lý chất thải rắn có nguồn gốc hữu cơ đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trước khi sử dụng cho cây trồng hoặc làm thức ăn cho thủy sản.
Chất thải rắn có nguồn gốc hữu cơ chưa xử lý khi vận chuyển ra khỏi cơ sở chăn nuôi trang trại đến nơi xử lý phải sử dụng phương tiện, thiết bị chuyên dụng.
Tổ chức, cá nhân sở hữu cơ sở chăn nuôi trang trại có trách nhiệm xử lý khí thải từ hoạt động chăn nuôi đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải chăn nuôi và việc xử lý chất thải khác phải tuân thủ quy định của pháp luật về thú y, bảo vệ môi trường.
Vật nuôi chết vì dịch bệnh và chất thải nguy hại khác phải được xử lý theo quy định của pháp luật về thú y, bảo vệ môi trường. Đối với nước thải chăn nuôi, khoản 3, Điều 59 Luật Chăn nuôi quy định: Tổ chức, cá nhân sở hữu cơ sở chăn nuôi trang trại có trách nhiệm thu gom, xử lý nước thải chăn nuôi đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chăn nuôi trước khi xả thải ra nguồn tiếp nhận theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường;
Nước thải chăn nuôi đã xử lý đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chăn nuôi được sử dụng cho cây trồng;
Nước thải chăn nuôi chưa xử lý khi vận chuyển ra khỏi cơ sở chăn nuôi trang trại đến nơi xử lý phải sử dụng phương tiện, thiết bị chuyên dụng. Khoản 4, 5 Điều 59 còn quy định tổ chức, cá nhân sở hữu cơ sở chăn nuôi trang trại có trách nhiệm xử lý khí thải từ hoạt động chăn nuôi đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải chăn nuôi và việc xử lý chất thải khác phải tuân thủ quy định của pháp luật về thú y, bảo vệ môi trường.
Đối với chăn nuôi nông hộ, Điều 60 Luật Chăn nuôi quy định chủ chăn nuôi nông hộ phải thực hiện các yêu cầu; Có biện pháp xử lý phân, nước thải, khí thải chăn nuôi bảo đảm vệ sinh môi trường và không gây ảnh hưởng đến người xung quanh; Vật nuôi chết vì dịch bệnh và chất thải nguy hại khác phải được xử lý theo quy định của pháp luật về thú y, bảo vệ môi trường.
Để cụ thể hoá các quy định của pháp luật về chăn nuôi, trong đó có quản lý chất thải chăn nuôi, Chính phủ cũng ban hành nghị định 13/2020/NĐ-CP về Hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi trong đó chương 6 quy định chi tiết về xử lý chất thải chăn nuôi.
Công tác quản lý môi trường và áp dụng công nghệ cồn nhiều bất cập
Ngành Chăn nuôi tại Việt Nam hiện nay có xu hướng chuyển dịch từ quy mô nông hộ sang chăn nuôi tập trung và thâm canh với quy mô lớn. Cùng với xu hướng đó, ô nhiễm môi trường (ÔNMT) chăn nuôi tại các vùng nông thôn ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Theo một số chuyên gia nông nghiệp cho rằng, nguyên nhân chính gây ô nhiễm là do chăn nuôi nhỏ lẻ, không kiểm soát được xả thải ra môi trường. Tuy nhiên, qua thực tế khảo sát ở Việt Nam, chăn nuôi quy mô trang trại và thâm canh, mặc dù có áp dụng biện pháp xử lý môi trường, nhưng vẫn gây ÔNMT nghiêm trọng do các nguyên nhân về công tác quản lý môi trường và áp dụng công nghệ chưa phù hợp.
Ảnh minh hoạ. Nguồn internet
Theo thống kê của Bộ NN&PTNT về chăn nuôi, cả nước hiện có khoảng 12 triệu hộ gia đình có hoạt động chăn nuôi và 23.500 trang trại chăn nuôi tập trung. Trong đó, phổ biến ở nước ta là chăn nuôi lợn (khoảng 4 triệu hộ) và gia cầm (gần 8 triệu hộ), với tổng đàn khoảng 362 triệu con gia cầm, 29 triệu con lợn và 8 triệu con gia súc, mỗi năm khối lượng nguồn thải ra từ chăn nuôi ra môi trường là một con số khổng lồ – khoảng 84,5 triệu tấn/năm, trong đó, chỉ khoảng 20% được sử dụng hiệu quả (làm khí sinh học, ủ phân, nuôi trùn, cho cá ăn,…), còn lại 80% lượng chất thải chăn nuôi đã bị lãng phí và phần lớn thải ra môi trường gây ô nhiễm.
Theo TS. Nguyễn Thế Hinh, Ban Quản lý các dự án Nông nghiệp, Bộ NN&PTNT: Nguyên nhân chính được xác định gây ÔNMT trong ngành chăn nuôi là do các trang trại sử dụng nhiều nước. Kết quả khảo sát cho thấy, các trang trại chăn nuôi sử dụng ít nước đều có thể dễ dàng thu gom chất thải rắn để bán làm phân bón hữu cơ.
Chất thải rắn từ các trang trại nuôi gà hầu như được tiêu thụ hết cho mục đích trồng rau, hoa, cây cảnh; hiện nay hình thành tự phát một hệ thống thu gom phân trâu bò khô từ đồng bằng sông Cửu Long đến vùng Nam Trung bộ để bán cho các cơ sở chế biến phân bón hữu cơ tại Tây Nguyên phục vụ trồng cây công nghiệp như cà phê, tiêu, cao su…; chất thải rắn thu gom từ chăn nuôi lợn nái (do nuôi lợn nái không được sử dụng nhiều nước) luôn được tiêu thụ tốt.
Do vậy, có thể nói trong chăn nuôi sử dụng ít nước, chất thải rắn từ chăn nuôi luôn có thể thu gom để bán nên không còn nhiều để thải ra môi trường. Chỉ có chăn nuôi lợn thịt hoặc chăn nuôi bò sữa quy mô công nghiệp sử dụng nhiều nước (theo các quy trình chăn nuôi thâm canh quy mô lớn) mới là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường do chất thải lỏng từ các trang trại này không thể thu gom nên chỉ còn cách xả trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua các hầm khí sinh học (KSH)) xuống nguồn nước.
Các trang trại đều không thể đáp ứng yêu cầu đặt ra
Mặt khác, công tác quản lý môi trường chưa đáp ứng được với nhu cầu của thực tế sản xuất. Các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chăn nuôi theo QCVN 40:2011/BTNMT trước kia và QCVN 62-MT:2016/BTNMT hiện nay đều quá cao so với khả năng thực tế ứng dụng công nghệ xử lý môi trường hiện tại, dẫn đến hầu hết các trang trại đều không thể đáp ứng yêu cầu đặt ra do chưa có công nghệ xử lý môi trường chăn nuôi hiệu quả để theo kịp các quy định về xả thải môi trường.
Do khó có thể đáp ứng quy định xả thải nên ở nhiều nơi, việc áp dụng biện pháp xử lý môi trường của các trang trại chỉ mang tính đối phó. Vẫn còn tâm lý ưu tiên phát triển kinh tế, giảm nhẹ yếu tố môi trường ở nhiều cấp chính quyền địa phương nên việc quản lý và xử lý môi trường chăn nuôi còn mang nặng tính hình thức.
Lượng CTR phát sinh từ hoạt động chăn nuôi bò chiếm phần lớn trong tổng số CTR chăn nuôi. Ảnh ITN
Những năm vừa qua, biện pháp KSH được người dân và các cấp chính quyền ưu tiên sử dụng, tuy nhiên vẫn còn có nhiều khó khăn, bất cập. Đối với các công trình KSH quy mô nhỏ, hiện tượng quá tải công suất xử lý (quy mô chăn nuôi thay đổi thường xuyên trong khi dung tích của hầm KSH là cố định) và khí ga thừa không sử dụng hết, xả trực tiếp ra môi trường là nguyên nhân phổ biến gây ô nhiễm môi trường.
Đối với chăn nuôi quy mô trang trại, công nghệ KSH chưa thực sự đem lại lợi ích về kinh tế (làm hầm KSH tốn diện tích đất, tốn chi phí đầu tư lớn nhưng không đem lại nguồn thu bổ sung cho chủ trang trại), có tác động tiêu cực về môi trường (khí ga sinh ra hầu như không sử dụng, xả trực tiếp ra môi trường, hầm KSH không được quan tâm vận hành, hỏng không được sửa chữa do chủ trang trại không có động lực để bỏ chi phí ra duy trì vận hành hệ thống nhằm đảm bảo hiệu quả xử lý môi trường) và hậu quả xấu về xã hội (việc áp dụng biện pháp xử lý môi trường chỉ mang tính hình thức, đối phó lẫn nhau giữa các chủ trang trại và các cấp quản lý).
Khu xử lý chất thải của trang trại lợn thuộc Công ty Cổ phần Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao Tích hợp Anifer. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)
Qua khảo sát của Dự án Hỗ trợ Nông nghiệp các bon thấp (LCASP) do Bộ NN&PTNT thực hiện, hầu hết các hộ dân lựa chọn xây lắp các công trình KSH quy mô nhỏ dưới 15 m3 vì lý do đây là dung tích phù hợp với nhu cầu sử dụng khí ga đun nấu của hộ gia đình, do vậy, đem lại hiệu quả đầu tư cao nhất.
Phần lớn khí ga sinh ra từ các công trình KSH quy mô lớn hơn 50 m3 đã và đang không được sử dụng hết và xả bỏ ra ngoài môi trường. Nguyên nhân chính của việc xả bỏ khí ga là do các công nghệ sử dụng khí ga để phát điện, thắp sáng, chạy máy… còn nhiều hạn chế như hay hỏng vặt, giá thành cao, không phù hợp với điều kiện của Việt Nam,…dẫn đến không đem lại hiệu quả kinh tế thực sự cho người sử dụng.
Thực trạng về khả năng của ứng dụng công nghệ xử lý môi trường tại Công ty Cổ phần Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao Tích hợp Anifer là một điển hinh Dự án trang trại lợn của Công ty Cổ phần Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao Tích hợp Anifer gây mùi khó chịu, khiến người dân tại thôn Toàn An, xã Đông An và thôn Trung Tâm, xã An Bình, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái rất bức xúc. Người dân phản ánh khoảng hơn một tháng nay, xuất hiện mùi hôi thối nồng nặc từ trang trại lợn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của dân cư lân cận. Ông Nguyễn Đức Thế, Trưởng thôn Toàn An, xã Đông An cho biết những gia đình sinh sống dọc bờ sông Hồng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Bà con trong thôn đã phản ánh đến chính quyền địa phương và làm việc với doanh nghiệp để xử lý vấn đề mùi khó chịu phát tán trong quá trình chăn nuôi của trang trại. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ khắc phục được vài hôm rồi lại đâu vào đấy. Bà Nguyễn Thị Vân, ở thôn Trung Tâm, xã An Bình chia sẻ sáng sớm hay tối muộn, mùi hôi thối từ trang trại lợn Anifer bốc lên nồng nặc, dù bà đóng kín cửa thì vẫn không thể ngăn được mùi. Theo cơ quan chức năng, trang trại nuôi lợn của Công ty Anifer (tại thôn An Khang, xã Đông An) hoạt động từ cuối năm 2021 với diện tích gần 32ha. Quy mô của trang trại là 2.400 lợn nái và 24.000 lợn thịt/lứa, kết hợp với sản xuất 5.000 tấn phân hữu cơ và trồng cây ăn quả. Trang trại đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Yên Bái cấp giấy phép môi trường số 2658/GPMT-UBND, ngày 27/12/2022. Ông Đỗ Quang Trung - Bí thư Đảng ủy xã Đông An, cho biết sau những phản ánh của người dân, chính quyền địa phương đã làm việc với doanh nghiệp để yêu cầu khắc phục mùi hôi thối. Tại buổi làm việc, doanh nghiệp xác định việc mùi hôi bốc ra từ các dãy chuồng nuôi. Vì không có đầy đủ thiết bị nên không xác định cụ thể mức độ mùi hôi. Tuy nhiên, kết quả theo dõi từ đầu năm đến nay cho thấy vào những ngày có mưa hoặc thời tiết âm u, mùi hôi thối bốc lên từ khu chăn nuôi nặng hơn. Ông Trần Thống Nhất - quyền Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Văn Yên - cho hay Phòng đã nhận được báo cáo của xã về việc gần đây trang trại chăn nuôi lợn bốc mùi hôi thối. Đơn vị đang xin ý kiến chỉ đạo của Sở Tài nguyên và Môi trường để thành lập đoàn kiểm tra, làm việc với doanh nghiệp nhằm khắc phục tình trạng trên. Đại diện doanh nghiệp, ông Đặng Vĩnh Hà, quản lý Chi nhánh Yên Bái-Công ty Cổ phần Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao Tích hợp Anifer xác nhận quá trình vận hành trang trại gây ra mùi hôi. Sau phản ánh của người dân, đơn vị đã khắc phục ngay và yêu cầu công nhân tăng cường rửa chuồng trại sạch sẽ, hạn chế thấp nhất mức độ mùi để tránh ảnh hưởng đến cuộc sống người dân. |
Hạn chế dùng nước tăng cường khả năng thu gom chất thải rắn
Có thể nói, hiện trạng quản lý môi trường chăn nuôi hiện nay đang còn nhiều bất cập về quản lý, bế tắc về công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi quy mô trang trại, thiếu sự quan tâm thỏa đáng của các cấp chính quyền về quản lý và sự đầu tư nghiên cứu tìm kiếm các giải pháp công nghệ phù hợp, bền vững, giúp vừa xử lý môi trường chăn nuôi lại vừa mang lại thu nhập bổ sung, tạo động lực cho người dân áp dụng các biện pháp BVMT.
Xuất phát từ những phân tích ở trên, TS. Nguyễn Thế Hinh, cũng đưa ra một số giải pháp để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường của ngành chăn nuôi như: Nghiên cứu xây dựng các quy trình chăn nuôi tiết kiệm nước nhằm tăng cường khả năng thu gom chất thải rắn của các trang trại chăn nuôi để phục vụ sản xuất phân bón hữu cơ.
Ấu trùng ruồi lính đen ăn chất thải hữu cơ trước khi chúng được thu hoạch để làm thức ăn gia súc và các sản phẩm khác. (Ảnh: Shutterstock)
Đồng thời, nghiên cứu công nghệ xử lý chất thải cho các quy mô chăn nuôi khác nhau theo hướng: Công nghệ KSH cải tiến cho chăn nuôi quy mô nhỏ và một số công nghệ bổ trợ khác nhằm khắc phục các hạn chế về quá tải hầm KSH; Các thiết bị giúp sử dụng hết khí ga sinh ra từ các hầm KSH; Công nghệ tách chất thải rắn từ phân lỏng do chăn nuôi quy mô công nghiệp sử dụng nhiều nước tạo ra nhằm xử lý hiệu quả hơn nước thải từ các trang trại chăn nuôi.
Có chính sách khuyến khích nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ phân bón hữu cơ sinh học có nguồn gốc từ chất thải chăn nuôi nhằm thay thế phân hóa học nhập khẩu. Hiện tại, mỗi năm Việt Nam tiêu thụ khoảng 11 triệu tấn phân bón, trong đó hơn 90% là phân bón hóa học (số liệu thống kê năm 2016 cho thấy, Việt Nam nhập khẩu khoảng 4,2 triệu tấn phân bón hóa học với trị giá 1,25 tỷ USD), phân bón hữu cơ chỉ chiếm xấp xỉ 1 triệu tấn.Tính bình quân mỗi ha canh tác ở Việt Nam nhận hơn 1 tấn phân bón hóa học mỗi năm, đây là mức cao so với các nước trong khu vực.
Khi sử dụng phân bón hóa học, khoảng từ 30-50% lượng phân bón được cây trồng sử dụng để tạo sinh khối, phần còn lại sẽ bị bốc hơi và rửa trôi xuống nguồn nước gây ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, với khoảng 84,5 triệu tấn chất thải rắn do ngành chăn nuôi thải ra hàng năm, nếu các trang trại chăn nuôi được chuyển giao công nghệ tiên tiến để sản xuất phân bón hữu cơ từ chất thải chăn nuôi, nhằm giảm ô nhiễm môi trường chăn nuôi một cách bền vững.
Kiến nghị nghiên cứu điều chỉnh quy định về xả thải chăn nuôi phù hợp hơn với điều kiện thực tế của các trang trại chăn nuôi tại Việt Nam.
Đề nghị bổ sung công nghệ sử dụng chất thải chăn nuôi làm phân bón hữu cơ nguyên liệu thành một trong những công nghệ xử lý môi trường chăn nuôi chủ lực cho các trang trại bên cạnh công nghệ KSH đang được ưu tiên sử dụng hiện nay.
Áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn
Thái Nguyên là tỉnh có tổng đàn gia súc, gia cầm đứng thứ 2 trong khu vực các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, với 650.000 con lợn, trên 90.000 con trâu, bò và 15,8 triệu con gia cầm. Sự tăng trưởng và phát triển của ngành chăn nuôi kéo theo sự gia tăng về lượng chất thải. Để xử lý hiệu quả chất thải, thời gian qua, nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh đã áp dụng chăn nuôi theo mô hình kinh tế tuần hoàn, bước đầu cho thấy kết quả khả quan.
Nuôi 55 con bò, làm sao để xử lý hiệu quả lượng phân bò thải ra hằng ngày mà không gây ảnh hưởng đến môi trường luôn là trăn trở của gia đình anh Dương Văn Hồng, ở xóm Phú Xuân, xã Nga My (Phú Bình).
Gia đình anh Hồng đã áp dụng nuôi giun trùn quế để xử lý phân bò, sau khi tiêu hóa, giun sẽ thải ra phân có chứa các thành phần axit amin, giàu đạm. Không những vậy, phân giun quế còn chứa nhiều hỗn hợp vi sinh có hoạt tính cao, giúp cây trồng phát triển tốt và tăng khả năng cải tạo đất.
Anh Hồng chia sẻ: Vòng tuần hoàn chăn nuôi bò, dùng phân bò nuôi giun quế, rồi phân trùn quế lại làm phân bón để trồng cỏ, ngô làm thức ăn cho bò, giúp gia đình tôi tiết kiệm chi phí sản xuất, tạo ra những sản phẩm an toàn.
Gia đình anh Dương Văn Hồng, ở xóm Phú Xuân, xã Nga My (Phú Bình), xử lý chất thải chăn nuôi bằng giun trùn quế.
Không chỉ riêng anh Hồng, thời gian qua, nhiều hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đã áp dụng quy trình sản xuất tuần hoàn, sử dụng công nghệ phủ bạt, đệm lót sinh học, máy ép tách phân sản xuất phân hữu cơ, máy lọc sục khí, công nghệ vi sinh hữu hiệu, chế phẩm sinh học để xử lý chất thải...
Chất thải rắn được bà con thu gom, ủ vi sinh làm phân bón chè, lúa; chất thải lỏng được xử lý bằng biogas tạo khí đốt, nước thải sau biogas để tưới chè. Áp dụng mô hình này, đàn vật nuôi phát triển khỏe mạnh, giảm chi phí trong quá trình sản xuất, môi trường được bảo đảm.
Trên địa bàn tỉnh hiện có hơn 1.100 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và 200 nghìn hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Với mục tiêu hướng đến phát triển chăn nuôi bền vững, thân thiện môi trường, tỉnh khuyến khích bà con sử dụng chất thải, phế phẩm, phụ phẩm làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất khác, thông qua việc áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ hóa lý…
Ngoài ra, các địa phương cũng đã quy hoạch, bố trí đất đai dành cho phát triển chăn nuôi, di dời các cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực nội thị, đến vùng chăn nuôi tập trung, xa khu dân cư, tạo điều kiện cho người dân đầu tư chăn nuôi khép kín, quy mô lớn, xây dựng hệ thống xử lý chất thải, chứa chất thải để sử dụng trong nông nghiệp.
Cùng với đó, người dân cũng đầu tư chăn nuôi khép kín, sử dụng chế phẩm sinh học, xử lý chất thải bằng hầm biogas, đệm lót sinh học, giun quế, ruồi lính đen... góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường, tăng khả năng kháng bệnh, nâng cao năng suất, chất lượng đàn vật nuôi.
Với quy mô phát triển chăn nuôi như hiện nay, nếu nguồn chất thải chăn nuôi được thu gom, xử lý làm nguyên liệu đầu vào cho nuôi trồng thủy sản, trồng trọt và các hoạt động sản xuất khác thì sẽ mang lại hiệu quả cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Tuy nhiên, việc phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi vẫn còn hạn chế, như: Phương thức chăn nuôi tuần hoàn hiện mới chỉ áp dụng đồng bộ tại các mô hình trang trại tổng hợp; chăn nuôi quy mô nông hộ vẫn chiếm trên 60%, hệ thống chuồng trại tận dụng, không đồng bộ nên khó áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, quy trình chăn nuôi an toàn sinh học…
Để xử lý hiệu quả chất thải chăn nuôi, bên cạnh các chính sách khuyến khích, cần có sự hợp tác liên kết trong sản xuất giữa mô hình gia trại và theo quy hoạch của từng địa phương…
Tối 22/11, tại Bảo tàng tỉnh Phú Yên, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Bến Vũng Rô và hoạt động tiếp nhận chi viện từ những chuyến Tàu Không số”. Hoạt động nhằm hướng đến kỷ niệm 60 năm Bến Vũng Rô tiếp nhận chuyến hàng đầu tiên của Tàu Không số (28/11/1964 – 28/11/2024).
Thời gian qua, tỉnh Nghệ An triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, cơ chế, chính sách thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, bước đầu đạt được những kết quả tích cực. Đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) nâng cao ý thức tự lực, tự cường vươn lên phát triển kinh tế, xây dựng cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo nên diện mạo mới cho nông thôn miền núi xứ Nghệ.
Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về bảo hiểm tiền gửi (BHTG) 2024 là một hoạt động quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của công chúng về chính sách BHTG và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), qua đó truyền tải nội dung chính sách BHTG một cách mới mẻ, hấp dẫn và thu hút sự quan tâm của công chúng.