Thủ tướng nhấn mạnh cần có các cơ chế, chính sách hiệu quả để huy động và sử dụng các nguồn lực, lấy đầu tư công dẫn dắt và kích hoạt mọi nguồn lực trong xã hội.
Sáng 9/7, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đông Nam Bộ và Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 27-KL/TW ngày 2/8/2012 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đông Nam Bộ và Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 27-KL/TW ngày 2/8/2012 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW. - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Hội nghị được tổ chức tại hai đầu cầu Thành phố Hồ Chí Minh và Văn phòng Chính phủ. Tham dự Hội nghị có Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang; Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Nên; Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái; các Bộ trưởng, lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương; lãnh đạo các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ và vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam; các chuyên gia, nhà khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học.
Tại Hội nghị, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương trình bày các tham luận, tập trung đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế xã hội, huy động nguồn lực, giải quyết các vấn đề nổi lên của Vùng như quản lý đất đai, ô nhiễm môi trường; liên kết Vùng; giải pháp phát triển đô thị, mạng lưới giao thông Vùng, giải quyết vấn đề ách tắc giao thông, chống ngập cho TPHCM; phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm, đảm bảo an sinh xã hội; phát triển các ngành, lĩnh vực cần được ưu tiên đầu tư, công nghiệp công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và trung tâm tài chính, ngân hàng; công tác xây dựng tổ chức Đảng và hệ thống chính trị cấp cơ sở, giữ vững an ninh-quốc phòng, trật tự an toàn xã hội của Vùng…
Nhiều chỉ số kinh tế của Vùng cao nhất cả nước
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư – cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo tổng kết, thực hiện Nghị quyết 53 và Kết luận số 27, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung và Vùng Đông Nam Bộ nói riêng đã có những chuyển biến hết sức tích cực, qua đánh giá sơ bộ đã đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đánh giá, các nhiệm vụ, giải pháp, chỉ tiêu đề ra của Nghị quyết số 53 và Kết luận số 27 đã được các bộ, ngành và cơ quan trong Vùng triển khai thực hiện tích cực.
Vùng tiếp tục là cực tăng trưởng với quy mô GRDP chiếm tỷ trọng cao nhất trong GDP cả nước; thu nhập bình quân đầu người cao nhất cả nước. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng hiện đại, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng tăng, tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng cao; tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ, năng suất lao động đạt mức cao nhất cả nước. Năng suất lao động đạt mức cao nhất cả nước. Kinh tế tư nhân của Vùng phát triển năng động, mạnh mẽ; là địa bàn thu hút FDI, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất lớn nhất cả nước.
Vùng đang dần trở thành "bệ đỡ" cho phát triển Vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long; là cửa ngõ giao thương của khu vực phía Nam và cả nước.
Diện mạo đô thị ngày càng đổi mới, hiện đại; tốc độ đô thị hóa nhanh, làm thay đổi bộ mặt nông thôn trong Vùng. Hệ thống đô thị đã được phát triển và phân bố hợp lý tạo sự liên kết mang tính hệ thống giữa các đô thị trong Vùng.
Lĩnh vực văn hóa, xã hội có bước phát triển khá và đạt trình độ cao so với mặt bằng chung của cả nước. Tỉ lệ lao động qua đào tạo cao ở mức hàng đầu cả nước. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên; thu nhập bình quân đầu người cao nhất cả nước. Lĩnh vực y tế được cải thiện, nhất là y tế chuyên sâu đã có những thành tựu ngang tầm khu vực và thế giới.
Hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã đạt được một số thành tựu nổi bật. TPHCM dần trở thành trung tâm khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ thông tin của Vùng và cả nước.
Công tác cải cách hành chính và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh có bước chuyển biến tích cực theo hướng phục vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Công tác xây dựng Đảng được quan tâm. Quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố.
Tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu đặt ra chưa đạt được. Công nghiệp của Vùng phát triển nhanh nhưng thiếu tính bền vững và đồng bộ; chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; phân bố các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa hợp lý; các ngành dịch vụ cao cấp, chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
Kết cấu hạ tầng vùng, liên Vùng còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, tính kết nối và đồng bộ còn yếu. Hệ thống giao thông quá tải, tắc nghẽn. Tình trạng ngập úng thường xuyên. Một số công trình trọng điểm như sân bay Long Thành (giai đoạn 1), di dời cảng trong khu vực TPHCM, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có... còn chậm tiến độ so với mục tiêu đề ra.
Hạ tầng xã hội chưa theo kịp sự phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập quốc tế. Tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa đạt mục tiêu, chưa thực sự trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội Vùng.
Liên kết giữa các địa phương trong Vùng chưa chặt chẽ, còn hình thức, liên kết nội Vùng và liên Vùng chưa có tính chiến lược, lâu dài để nâng cao năng lực cạnh tranh Vùng…
Hàng trăm nghìn tỷ đồng cho hạ tầng giao thông Vùng
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể nhận định trong những năm qua, tốc độ phát triển hạ tầng giao thông của Vùng chậm hơn tốc độ phát triển kinh tế và đây là một nguyên nhân dẫn tới tốc độ tăng trưởng của Vùng chậm lại. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội, Chính phủ đã quan tâm bố trí khoảng 120.000 tỷ đồng vốn ngân sách để đầu tư cho các dự án hạ tầng giao thông chiến lược trong Vùng và liên Vùng, cùng với đó là một số dự án hợp tác công tư (PPP).
Theo đó, từ nay tới năm 2025, sẽ hoàn thành đưa vào khai thác tuyến cao tốc Bến Lức-Long Thành, tuyến Thành phố Hồ Chí Minh-Cần Thơ (đoạn Mỹ Thuận-Cần Thơ và cầu Mỹ Thuận 2), tuyến cao tốc Biên Hòa-Vũng Tàu; thu xếp nguồn vốn để khởi công các tuyến đường Vành đai 4, tuyến cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh-Mộc Bài, tuyến cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh-Thủ Dầu Một-Chơn Thành, tiếp tục đầu tư mở rộng tuyến cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh-Long Thành-Dầu Giây.
Về các sân bay, Bộ trưởng cho biết các cơ quan đang triển khai các giải pháp đồng bộ để nâng công suất sân bay Tân Sơn Nhất lên 50 triệu hành khách mỗi năm; đồng thời quyết liệt thúc đẩy dự án sân bay Long Thành để đưa vào khai thác giai đoạn 1 vào năm 2025 với 25 triệu khách.
Bộ trưởng cũng cho rằng các địa phương cần tập trung các nguồn lực để xây dựng các tuyến đường giải quyết vấn đề ách tắc giao thông tại các cảng lớn trong Vùng như Cái Mép-Thị Vải…; nâng cấp luồng hàng hải từ phao số 0 vào cụm cảng Cái Mép-Thị Vải, luồng Xoài Rạp; kêu gọi đầu tư các cảng biển, trung tâm logistic Cái Mép Hạ, các cảng cạn trong Vùng để hình thành các trung tâm logistic lớn…
Tinh thần là địa phương và Trung ương cùng hợp lực để giải quyết vấn đề giao thông của Vùng, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể phát biểu.
Nhanh chóng triển khai nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng Đông Nam Bộ
Chủ tịch UBND TPHCM Phan Văn Mãi đề nghị đẩy mạnh liên kết triển giao thông Vùng với các tuyến đường bộ (vành đai, quốc lộ, cao tốc kết nối), đường thuỷ (hệ sông Sài Gòn, Đồng Nai, Vàm Cỏ; kết nối ĐBSCL-Campuchia), đường sắt - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chủ tịch UBND TPHCM Phan Văn Mãi đánh giá, kết quả thực hiện Nghị quyết 53 đã giúp Vùng giữ vững vai trò đầu tàu về kinh tế-xã hội, khoa học-công nghệ; là trung tâm tài chính, logistics, đầu mối giao lưu quốc tế lớn nhất cả nước.
Tuy nhiên, Vùng đang gặp nhiều thách thức, mà nghiêm trọng nhất là việc phát triển dưới mức tiềm năng và chưa phát huy tốt vai trò trung tâm kinh tế-xã hội của cả nước. Cụ thể là tốc độ tăng trưởng chậm lại và chậm hơn tốc độ tăng trưởng chung của các nước; vai trò đầu mối xuất nhập khẩu giảm; hiệu quả sử dụng vốn của Vùng luôn thấp nhất và đều thấp hơn so với bình quân của cả nước; kinh tế Vùng giảm tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế cả nước.
Riêng TPHCM đóng góp đến trên 50% vào tăng trưởng của Vùng, và trong những năm gần đây, việc Thành phố tăng trưởng chậm đã ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng của Vùng.
Lãnh đạo Thành phố cho rằng, thể chế hiện hành chưa đủ mạnh để khuyến khích chính quyền địa phương chủ động, sáng tạo và tăng cường liên kết Vùng. Quy hoạch từng địa phương hiện nay đang tạo nên "lực kéo", thay vì "lực đẩy" cho phát triển của Vùng. Quy hoạch trùng lắp chức năng, dẫn đến cạnh tranh, thiếu liên kết.
Hạ tầng giao thông, đô thị không theo kịp và đang cản trở sự phát triển nhanh, bền vững của Vùng. Định hướng chiến lược đặt mục tiêu lớn, nhưng nguồn lực đầu tư hạn chế, và chưa có các cơ chế hiệu quả thu hút nguồn lực từ xã hội.
Sự phát triển chậm lại của TPHCM trong nhiều lĩnh vực và các vấn đề "trục trặc" đặt ra trong quá trình phát triển tác động đến Vùng. Khoảng 10 năm trở lại đây, sự vượt trội của Thành phố so với cả nước ở một số mặt đã chậm lại, thậm chí tụt hậu, các thách thức về giao thông, ngập nước, giáo dục, y tế, sự không bền vững về lao động và dân số gia tăng.
Đề xuất các định hướng chính phát triển thời gian tới, ông Phan Văn Mãi đề nghị nhanh chóng triển khai nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng Đông Nam Bộ theo quyết định số 463/QĐ-TTg ngày 15/4/2022; hoàn thiện cơ chế liên kết, điều phối phát triển Vùng và bộ máy giúp việc.
Đẩy mạnh liên kết triển giao thông Vùng với các tuyến đường bộ (vành đai, quốc lộ, cao tốc kết nối), đường thuỷ (hệ sông Sài Gòn, Đồng Nai, Vàm Cỏ; kết nối ĐBSCL-Campuchia), đường sắt; liên kết trong vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ các hệ sông; xử lý chất thải công nghiệp, sinh hoạt; thích ứng biến đổi khí hậu.
Cùng với đó là liên kết phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thị trường lao động chung của Vùng: Trung tâm đại học - đào tạo nghề; trung tâm công nghiệp-dịch vụ nền tảng của thị trường lao động; liên kết phát triển hạ tầng chuyển đổi số và xây dựng cơ dữ liệu Vùng về kinh tế-xã hội, làm cơ sở hoạch định chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển và điều phối hoạt động liên kết Vùng.
Ông Phan Văn Mãi cũng đề nghị hoàn thiện cơ chế đặc thù phát triển Thành phố và đầu tư phát triển Thành phố để giữ vững vai trò đầu tàu của Vùng và cả nước, tập trung đầu tư để TPHCM là trung tâm tài chính khu vực và quốc tế; trung tâm logistics; trung tâm khoa học, đổi mới sáng tạo; trung tâm chăm sóc sức khỏe, đào tạo nhân lực khu vực và quốc tế; và chương trình chuyển đổi số TPHCM.
Đủ điều kiện để đi đầu trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Các ý kiến tại Hội nghị cũng cho rằng, Vùng Đông Nam Bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có nhiều tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh. Vùng có đầy đủ điều kiện để đi đầu trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng, xây dựng kinh tế số, xã hội số; sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, công nghiệp chế biến, chế tạo, tài chính ngân hàng, bất động sản, khoa học, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; nâng cao khả năng kết nối hạ tầng Vùng, tạo động lực liên kết, lan toả thúc đẩy hợp tác và phát triển với các Vùng lân cận. Đồng thời, phải nhìn nhận đúng đắn, đầy đủ các thách thức đang đặt ra đối với nước ta nói chung và với Vùng nói riêng.
Thủ tướng Phạm Minh Chính: Thực tiễn đã khẳng định Nghị quyết 53 và Kết luận 27 là đúng hướng, đã thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, Hội nghị bàn về một vấn đề khó, lớn, phức tạp; ghi nhận, biểu dương các bộ, ngành, địa phương đã phối hợp chuẩn bị tốt nội dung, chương trình hội nghị, các báo cáo, tham luận sâu sắc, thẳng thắn, khách quan, tâm huyết, trách nhiệm, có tính xây dựng, khoa học và giàu tính thực tiễn, đánh giá toàn diện kết quả thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW và Kết luận số 27-KL/TW.
Nhấn mạnh việc tổ chức Hội nghị và tổng kết các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị theo tinh thần "nói đi đôi với làm", Thủ tướng gợi mở một số định hướng, nhấn mạnh một số nội dung để các cơ quan tiếp tục hoàn thiện các báo cáo, văn bản trình cấp có thẩm quyền. Trong đó, Báo cáo tổng kết phải bám sát các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Nghị quyết 53 và Kết luận 27 của Bộ Chính trị.
Thủ tướng nhấn mạnh, thực tiễn đã khẳng định Nghị quyết 53 và Kết luận 27 là đúng hướng, đã thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, củng cố niềm tin với Đảng và Nhà nước. Trong tình hình, bối cảnh mới, căn cứ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và đòi hỏi của thực tiễn, chúng ta cần xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành Nghị quyết mới về phát triển Vùng.
Các ý kiến tại Hội nghị đã tập trung đánh giá vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Vùng; khẳng định Vùng có tiềm năng rất lớn nhưng phát triển chưa tương xứng, dư địa phát triển còn nhiều… Những nguyên nhân chính là quy hoạch chưa hiện đại; công tác liên kết, phối hợp còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ; cơ chế điều phối Vùng và chính sách huy động nguồn lực chưa thực sự hiệu quả để tận dụng tối đa cơ hội nổi trội, tiềm năng khác biệt, lợi thế cạnh tranh…
Về các bài học kinh nghiệm, Thủ tướng cho rằng, các chủ trương, đường lối của Đảng đã rất rõ, vấn đề là phải tiếp tục tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; giải quyết các khó khăn, vướng mắc theo hướng rõ trách nhiệm, địa chỉ; những vấn đề chưa có quy định hoặc vượt quy định thì mạnh dạn thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội; phát huy tính chủ động của các địa phương nhưng phát huy sức mạnh tổng hợp của cả Vùng…
Về đánh giá, nhận định tình hình, bối cảnh thời gian tới, Thủ tướng lưu ý những vấn đề trước mắt như cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát, giá cả nguyên vật liệu tăng cao trên toàn cầu…; những vấn đề lâu dài như an ninh thông tin, cạn kiệt tài nguyên, già hóa dân số, phân hóa giàu nghèo…
Về các định hướng thời gian tới, Thủ tướng cho rằng, cần tập trung cho 3 khâu đột phá chiến lược (xây dựng và hoàn thiện thể chế; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng số…).
Đồng thời, cách thức tổ chức thực hiện liên kết cần chặt chẽ, hiệu quả hơn, cần một cơ chế điều phối, "nhạc trưởng" cho liên kết vùng phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế, đồng thời đẩy mạnh phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn, nâng cao tính tự lực, tự cường của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị…
Các bộ ngành tích cực, chủ động phối hợp, xử lý các vấn đề đặt ra với các địa phương trong Vùng, không để các địa phương phải "chạy lên chạy xuống" nhiều lần mà không giải quyết được vấn đề. Thủ tướng cho biết vừa qua đã chỉ đạo và các bộ, ngành, địa phương đã phối hợp tích cực, chặt chẽ, hiệu quả để giải quyết các vướng mắc của nhà đầu tư, thúc đẩy nhiều dự án đầu tư lớn.
Thủ tướng nhấn mạnh cần có các cơ chế, chính sách hiệu quả để huy động và sử dụng các nguồn lực, lấy đầu tư công dẫn dắt và kích hoạt mọi nguồn lực trong xã hội.
Đồng thời, phát triển hài hòa giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, môi trường, an sinh xã hội; giữ vững độc lập, chủ quyền, ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao gắn với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế thực chất, sâu rộng, hiệu quả.
Để đạt được các mục tiêu đề ra trong phát triển Vùng, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số định hướng, giải pháp trọng tâm. Theo đó, phát triển nhanh và bền vững kinh tế Vùng; tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, xây dựng quy hoạch, phát triển và đẩy mạnh liên kết Vùng.
Thủ tướng Phạm Minh Chính trao đổi với các đại biểu tham dự Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Cùng với đó, tập trung phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, xem đây là động lực phát triển nhanh và bền vững, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chú trọng phát triển văn hóa-xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Việc phát triển kinh tế-xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh; đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; thúc đẩy các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Nhân dịp này, Thủ tướng đề nghị các địa phương triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm trước mắt như ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; tập trung hoàn thành mục tiêu tiêm vaccine COVID-19 cho các đối tượng chỉ định và đánh giá miễn dịch cộng đồng; khắc phục các vấn đề liên quan tới y tế dự phòng, y tế cơ sở, nhất là bảo đảm thuốc điều trị để bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân; tập trung triển khai các chương trình phục hồi và phát triển, giải ngân vốn đầu tư công, 3 chương trình mục tiêu quốc gia; thúc đẩy các dự án trọng điểm của Vùng như đường vành đai 2, 3, chuẩn bị khởi động đường vành đai 4 Vùng TPHCM; hoàn thành dứt điểm công tác quy hoạch; nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất, giữ vững kỷ luật, kỷ cương hành chính, chủ động ứng phó với các vấn đề đột xuất, bất ngờ có thể xảy ra.
Trên cơ sở báo cáo tổng kết, các ý kiến tham luận tại Hội nghị, Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu đối đa để tiếp tục hoàn thiện dự thảo báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW và Kết luận số 27-KL/TW, hoàn thiện dự thảo tờ trình và dự thảo Nghị quyết mới của Bộ Chính trị, huy động tối đa trí tuệ tập thể, tiếp tục lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương, chuyên gia, nhà khoa học, báo cáo Ban Cán sự Đảng Chính phủ xem xét, cho ý kiến trước khi trình Bộ Chính trị, bảo đảm chất lượng, tiến độ, kế hoạch.
Từ năm 2010, Liên Hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ, hoàn thành trước thời hạn gần 10 năm 3 mục tiêu (xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình đẳng giới và vị thế cho phụ nữ) và có nhiều tiến bộ, đạt tiệm cận 5 mục tiêu còn lại.
Trong 5 ngày, từ 7/9 đến 12/9, “quái” bão YAGI (bão số 3) với sức gió cấp 12 -13, giật cấp 14 -15 -16 đã đổ bộ vào Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội,… và sau đó, hoàn lưu của nó gây mưa lớn liên tục trên toàn miền Bắc đã gây những tổn thất vô cùng to lớn về người và thiệt hại rất nặng nề về tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân.
Xuất khẩu nông sản của ta hiện trong TOP 10 -15 thế giới. Nông sản Việt có mặt tại khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch tăng mạnh trong 15 năm qua: năm 2009 mới chỉ gần 16,5 tỷ USD thì năm 2014, kim ngạch đạt 31 tỷ USD, năm 2019 đạt 41,3 tỷ USD, năm 2023 đạt trên 53 tỷ USD, đến hết tháng 7 năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đạt 34,27 tỷ USD, phấn đấu đạt 57 -58 tỷ USD cả năm.