Tại Nhật Bản, phần lớn đồng bằng nông nghiệp trước đây đã dần được đưa vào phát triển đô thị trong khi các sườn núi lại quá dốc để tiến hành canh tác.
Để giải bài toán khó một cách tổng thể, Chính phủ Nhật Bản đã chọn “số hóa nền sản xuất nông nghiệp” làm con đường đi. Nước này hy vọng, sản xuất nông nghiệp thông minh sẽ giúp tiệm cận được chương trình lương thực kết nối theo chuỗi bền vững.
Tự túc 45% nhu cầu lương thực vào năm 2030
Đất nước mặt trời mọc có tỷ lệ tự túc lương thực thấp nhất trong số các nền kinh tế lớn trên thế giới. Nhật Bản đặt mục tiêu tự túc 45% nhu cầu lương thực vào năm 2030, nhưng đang đối mặt nhiều thách thức.
Ngay từ năm 2016, Văn phòng nội các Nhật Bản đã đưa ra định hướng phát triển nông nghiệp dựa trên 3 nền tảng: Dữ liệu lớn - Internet vạn vật (IoT) - Trí tuệ nhân tạo (AI). Những lộ trình cải cách nhanh chóng được soạn thảo và công khai để vừa làm vừa điều chỉnh cho sát thực tế dưới sự cầm chịch của Bộ Nông nghiệp - Lâm nghiệp và Thủy sản. 121 điểm trình diễn định hướng chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp được lập ra với sự vào cuộc đồng bộ của chính quyền địa phương, Viện Nghiên cứu Nông nghiệp quốc gia và khu vực doanh nghiệp tư nhân.
Nhìn vào các điểm trình diễn này, ai cũng thấy nông nghiệp kỹ thuật số có sức mạnh để thực sự tạo ra đột phá. Nông dân có thể sử dụng cảm biến, mạng truyền thông, thiết bị bay không người lái, AI, rô bốt và các ứng dụng IoT để phân tích dữ liệu, quản lý, xử lý, ra quyết định và thực hiện.
Họ được cung cấp một chuỗi dữ liệu hoàn chỉnh, thu thập qua vệ tinh thời tiết, radar và thậm chí cả hệ thống quan sát trái đất và các thiết bị viễn thám, để theo dõi điều kiện thời tiết, nhiệt độ, độ ẩm...
AI có thể giúp nông dân đưa ra những lựa chọn sáng suốt hơn và chọn ra những hạt giống lai tốt nhất. Nó có độ chính xác đến mức báo trước được cho nông dân sản lượng và chất lượng cây trồng khi thu hoạch. Thêm vào đó, kết nối di động có thể giúp nông dân đạt được lợi nhuận cao hơn và ổn định kinh tế hơn.
Quản lý phân bón - khâu quan trọng trong quá trình sinh trưởng, một khi được áp dụng và điều hành bởi AI sẽ giúp nông dân khắc phục được hạn chế nếu dùng phương pháp tưới mặt vừa tốn nước, vừa tốn phân bón. Công nghệ sẽ điều khiển chính xác nhu cầu lẫn dung lượng nước và phân bón để nhỏ giọt vào đúng bộ rễ của cây trồng trong quá trình sinh trưởng.
Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Yano, thị trường nông nghiệp thông minh ở Nhật Bản sẽ tăng trưởng rất nhanh trong vài năm tới. Số liệu của Viện này cho thấy, năm 2019, doanh thu từ bán công nghệ và thiết bị sản xuất nông nghiệp thông minh đạt 15,87 tỷ Yên, dự báo tăng 3 lần, lên 44,28 tỷ Yên vào năm 2025.
Thay đổi nhận thức
Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu tổng hợp của khối nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Nhật Bản đạt 912,1 tỷ Yên, tương đương 8,79 tỷ USD. Đây là một kỷ lục của nền nông nghiệp nước này, sau 7 năm tăng trưởng liên tục. Nhật Bản có tham vọng nâng kim ngạch xuất khẩu nông sản lên 19,28 tỷ USD vào năm 2025 và 48,21 tỷ USD vào năm 2030.
Chìa khóa cho tham vọng này được xác định là chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp. Song hành là cuộc vận động chuyển đổi nhận thức không kém phần quyết liệt, đó là duy trì mô hình dựa trên quan điểm truyền thống “sản phẩm tiên quyết” kết hợp với cách tiếp cận mới là “khách hàng trước tiên”. Nói cách khác, giới quản trị ở nước này vẫn dùng khái niệm “nông nghiệp định hướng thị trường”. Trong đó, công nghệ giữ vai trò chính yếu cho cuộc chuyển đổi nhận thức này.
Một trong những ví dụ thành công là doanh nghiệp nông nghiệp Bell Farm, đóng tại Kikugawa thuộc quận Shizuoka, chuyên về cà chua Akademi.
Cà chua là loại nông sản có trị giá thị trường lớn thứ hai ở Nhật Bản, sau gạo.
Áp dụng mô hình quản trị hợp tác kết hợp công nghệ tối tân, phương thức sản xuất nông nghiệp thông minh ở Bell Farm cho ra sản phẩm đạt được cùng lúc 2 mục tiêu: Doanh thu cho nhà sản xuất và đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
“Sản xuất nông nghiệp có đặc điểm cố hữu là tính bất ổn do phụ thuộc nhiều yếu tố. Trước đây, người làm nông nghiệp lấy kinh nghiệm làm nền tảng. Giờ đây, kinh nghiệm của tôi đúc kết được là từ phương thức sản xuất thông minh, số hóa mọi quy trình”, Giám đốc Quản lý Bell Farm Norihisa Okada chia sẻ.
Bell Farm đầu tư trọn bộ một quy trình công nghệ có tên Profarm T-Cube, có khả năng kiểm soát sinh trưởng của cây trong mọi điều kiện thời tiết. Hệ thống rô bốt có lắp sẵn các thiết bị cảm biến cho phép kiểm soát được độ đường, khả năng bị gây hại và kích cỡ từng quả cà chua với sai số không đáng kể.
“Nông nghiệp thông minh lợi đủ đường, giảm thiểu thao tác vật lý, tiết kiệm thời gian và nhân lực, cho phép người không biết làm nông nghiệp cũng có thể sản xuất nông sản, nhất là giới trẻ”, Giám đốc Okada chia sẻ.
Tại Bell Farm, cà chua được trồng và cho thu hoạch quanh năm với chất lượng đồng đều, đạt tiêu chuẩn chất lượng GlobalGAP. “Ở đây, chúng tôi có cảm nhận rõ mình là một phần trong quá trình chuyển đổi của cả nền nông nghiệp và điều đó kích thích chúng tôi ghê gớm”, Giám đốc Okada nói.
Áp dụng vào nông nghiệp Việt Nam
Theo PGS.TS Trần Đăng Xuân, Trường đại học Hiroshima (Nhật Bản), nông nghiệp, lâm nghiệp và đánh bắt thủy sản chỉ chiếm 1,24% GDP của Nhật Bản (năm 2018). Tuy nhiên, các ngành này đóng vai trò quan trọng trong an ninh lương thực của đất nước.
Quốc gia này đối diện với nhiều khó khăn như: thiếu đất nông nghiệp, hơn 65% lao động độ tuổi trên 60, giảm số lượng nông dân, chỉ có 1,3 triệu hộ với 2 triệu nông dân trên tổng số 26,9 triệu dân ( số liệu năm 2019). Diện tích đất canh tác giảm từ 14,1% (năm 1969) xuống 11,4% (năm 2018). Việc phát triển nông nghiệp số giúp Nhật Bản khắc phục những thách thức của ngành nông nghiệp.
Ứng dụng IoT và AI, năng suất, chất lượng lao động cải thiện rõ. Thị trường nông nghiệp thông minh ở Nhật Bản dự kiến tăng gấp 3 lần doanh thu bán hàng từ 144,6 triệu USD (năm 2019) lên 403,4 triệu USD (năm 2025). Nhật Bản cũng có nhiều nghiên cứu hỗ trợ nông dân nắm bắt kỹ thuật. Nền nông nghiệp kỹ thuật ở đất nước mặt trời mọc đang ở giai đoạn đầu nên nhiều kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ về mặt quản lý có thể áp dụng tại Việt Nam.
Năm 2019, một nông dân Nhật Bản hàng năm xuất khẩu trung bình 40.000 USD về nông sản, con số này ở nông dân Việt là 1.000 USD. Do đó, việc đầu tư nền nông nghiệp kỹ thuật số để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản Việt Nam là rất cần thiết.
“Theo góc nhìn của các chuyên gia Nhật Bản, nông nghiệp kỹ thuật số có thể giúp Việt Nam trở thành cường quốc nông nghiệp của thế giới. Hiện, 70% sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đến từ 22 triệu nông dân sản xuất nhỏ. Vì vậy, chúng ta nên lấy hộ nông dân làm trung tâm, bắt đầu đào tạo từ khâu đơn giản”, ông Xuân nói.
Nhìn về tương lai, nông nghiệp kỹ thuật số sẽ giúp nông dân giảm thiểu tác động tiêu cực của khí hậu. Vì vậy, người dân nên học giao dịch sản phẩm trực tiếp trên các chợ nông sản trực tuyến, giảm bớt phụ thuộc vào thương lái trung gian như cách người Nhật làm trong nhiều năm qua.
Mỗi năm, huyện Yên Thế (Bắc Giang) bán ra thị trường trên 10 triệu con gia cầm thương phẩm, giá trị sản xuất năm 2024 ước đạt trên 1.600 tỷ đồng. Tuy chăn nuôi đã trở thành một nghề quan trọng trong kinh tế địa phương nhưng vẫn còn nhiều khó khăn trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Trước thực trạng này, nhiều giải pháp đã được đưa ra.
Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…