Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ năm, ngày 21 tháng 11 năm 2024  
Thứ tư, ngày 14 tháng 9 năm 2022 | 20:26

Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển Đồng bằng sông Hồng

Tham dự hội nghị, các đại biểu cơ bản thống nhất mục tiêu phát triển vùng ĐBSH, nhất là thay đổi tư duy, tầm nhìn đối với liên kết phát triển vùng để vùng trở thành trung tâm sản xuất công nghiệp, dịch vụ; nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn.

Sáng 14/9, tại Trung tâm Hội nghị thành phố Hải Phòng, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Thành ủy Hải Phòng tổ chức Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW, ngày 14/9/2005 và Kết luận số 13-KL/TW, ngày 28/10/2011 của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm QP-AN vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020.

Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW, ngày 14/9/2005 và Kết luận số 13-KL/TW, ngày 28/10/2011 của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm QP-AN vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020.
Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW, ngày 14/9/2005 và Kết luận số 13-KL/TW, ngày 28/10/2011 của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm QP-AN vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020.
Vùng Đồng bằng sông Hồng là một trong 6 vùng kinh tế - xã hội của cả nước, gồm 11 tỉnh, thành phố, trong đó có 2 thành phố trực thuộc Trung ương. Vùng có diện tích tự nhiên là 21.253 km2, chiếm 6,42% diện tích cả nước; dân số 22,92 triệu người, chiếm 23,5% dân số cả nước. Vùng Đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại của cả nước; là trung tâm về khoa học - công nghệ với đội ngũ trí thức trình độ cao; là trung tâm đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực cho cả nước với nhiều trường đại học, viện nghiên cứu lớn; có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, nhiều cảnh quan, di tích nổi tiếng gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc; có Thủ đô Hà Nội trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - công nghệ của cả nước và có Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là một trong bốn vùng động lực phát triển kinh tế của cả nước.
 
Tại hội nghị, các đại biểu thống nhất cao về phương pháp tiếp cận, nghiên cứu, bố cục, kết cấu của Báo cáo. Dự thảo Báo cáo tổng kết Nghị quyết 54 do Thường trực Tổ biên tập chuẩn bị đảm bảo bám sát Đề cương được Ban Chỉ đạo đã thông qua, phù hợp với thực tiễn phát triển của vùng; cập nhật được các chủ trương, nhiệm vụ của vùng đồng bằng sông Hồng được đề ra tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 được thông qua tại Đại hội XIII của Đảng và các Nghị quyết chuyên đề của Trung ương ban hành gần đây.
Ông Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương phát biểu kết luận Hội nghị
Ông Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương phát biểu kết luận Hội nghị.
Các đại biểu đánh giá: Nội dung Dự thảo Báo cáo tổng kết phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra của Ban Chỉ đạo; Dự thảo Báo cáo cần làm sâu sắc hơn về những thành tựu đạt được của vùng đồng bằng sông Hồng, ngoài chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp của Đảng, Nhà nước là sự lãnh đạo chỉ đạo toàn diện của cấp ủy và sự tích cực chủ động, sáng tạo vươn lên của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân trong vùng; cần làm sâu sắc hơn các tiềm năng, lợi thế đặc thù, những khó khăn, thách thức của từng địa phương và các tiểu vùng để đề xuất ban hành các chính sách trúng, đúng và kịp thời cho từng tỉnh, tiểu vùng; làm rõ hơn vị trí, tầm quan trọng của vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh mới, tình hình mới nhất là vai trò động lực của vùng với cả nước; làm sâu sắc hơn về các xu thế phát triển kinh tế mới tác động đến vùng như: phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, giáo dục - đào tạo, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn...
 
Đồng thời, các đại biểu cơ bản thống nhất với các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng đồng bằng sông Hồng đã đề ra trong dự thảo Báo cáo, đặc biệt là cần phải thay đổi tư duy, nhận thức và tầm nhìn đối với liên kết phát triển vùng để vùng trở thành trung tâm sản xuất công nghiệp và phát triển dịch vụ hiện đại; nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn phát triển mạnh; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước và hệ thống đô thị thông minh, kết nối; phát huy vai trò của các Hành lang kinh tế, các Khu công nghiệp.
 
Phát biểu kết luận Hội nghị, ông Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đánh giá cao các ý kiến thẳng thắn, trách nhiệm, xuất phát từ thực trạng phát triển vùng, địa phương và từ thực tiễn công tác và kinh nghiệm chỉ đạo, quản lý điều hành của các đại biểu; các ý kiến đã cung cấp thêm các thông tin và là nguồn tư liệu quý, góp phần quan trọng giúp Ban Chỉ đạo, Thường trực Tổ Biên tập tiếp tục bổ sung, hoàn thiện để Báo cáo phản ánh khách quan, toàn diện hơn về những thành tựu đã đạt được sau 17 năm thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW; những khó khăn, hạn chế, bài học kinh nghiệm; đánh giá bối cảnh tình hình mới và từ đó đề xuất các ý kiến về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng Đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới.
 
 
 
Phạm Trang
Ý kiến bạn đọc
  • “Không ai bị bỏ lại”, hiện thực hóa mục tiêu nhân văn

    “Không ai bị bỏ lại”, hiện thực hóa mục tiêu nhân văn

    Từ năm 2010, Liên Hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ, hoàn thành trước thời hạn gần 10 năm 3 mục tiêu (xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình đẳng giới và vị thế cho phụ nữ) và có nhiều tiến bộ, đạt tiệm cận 5 mục tiêu còn lại.

  • “Sâu nặng nghĩa tình”, điều còn mãi

    “Sâu nặng nghĩa tình”, điều còn mãi

    Trong 5 ngày, từ 7/9 đến 12/9, “quái” bão YAGI (bão số 3) với sức gió cấp 12 -13, giật cấp 14 -15 -16 đã đổ bộ vào Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội,… và sau đó, hoàn lưu của nó gây mưa lớn liên tục trên toàn miền Bắc đã gây những tổn thất vô cùng to lớn về người và thiệt hại rất nặng nề về tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân.

  • Không thương hiệu, thiệt đơn thiệt kép

    Không thương hiệu, thiệt đơn thiệt kép

    Xuất khẩu nông sản của ta hiện trong TOP 10 -15 thế giới. Nông sản Việt có mặt tại khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch tăng mạnh trong 15 năm qua: năm 2009 mới chỉ gần 16,5 tỷ USD thì năm 2014, kim ngạch đạt 31 tỷ USD, năm 2019 đạt 41,3 tỷ USD, năm 2023 đạt trên 53 tỷ USD, đến hết tháng 7 năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đạt 34,27 tỷ USD, phấn đấu đạt 57 -58 tỷ USD cả năm.

Top