Các địa phương đang nỗ lực tìm giải pháp để giải quyết vấn đề làm sạch nước thải đô thị, trước khi xây dựng đô thị sinh thái. Nhưng đây là bài toán khó...
Mỗi ngày, những đô thị lớn như TP. HCM, Hà Nội… thải ra hàng triệu mét khối nước thải từ sản xuất, dịch vụ và sinh hoạt, với đủ loại chất độc hại hủy hoại môi trường nước và đe dọa sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, chỉ 10% số này được qua nhà máy xử lý trước khi ra sông, biển.
Hàng triệu m3 nước bẩn ra sông mỗi ngày
TP. HCM ước tính có hơn 3 triệu m3 nước thải đô thị mỗi ngày nhưng tổng lượng nước thải qua xử lý của TP chỉ đạt 316.000 m3/ngày (chiếm tỉ lệ khoảng 10%). Hiện, TP. HCM có 3 nhà máy xử lý nước thải tập trung, gồm Nhà máy Xử lý nước thải Bình Hưng (giai đoạn 1), công suất 141.000 m3/ngày, Nhà máy Xử lý nước thải Bình Hưng Hòa, công suất 30.000 m3/ngày, Nhà máy Xử lý nước thải Tham Lương - Bến Cát (giai đoạn 1) công suất 131.000 m3/ngày. Ngoài ra, có 4 trạm xử lý nước thải phi tập trung gồm trạm Tân Quy Đông (500 m3/ngày); khu tái định cư Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh (3.700 m3/ngày); trạm Khu tái định cư 17,3 ha phường Bình Khánh, TP Thủ Đức (3.000 m3/ngày)…
Theo các chuyên gia về môi trường, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng ô nhiễm sông, hồ nhiều năm qua ở Hà Nội là do nước thải sinh hoạt của dân cư xung quanh và nước thải của khu, cụm công nghiệp chưa qua xử lý xả thẳng vào mà không qua xử lý làm sạch. TS Đào Trọng Tứ, Giám đốc Trung tâm Phát triển bền vững tài nguyên nước và Thích nghi biến đổi khí hậu, cho biết Hà Nội hiện có nhiều nhà máy xử lý nước thải nhưng chỉ với công suất nhỏ, đáp ứng xử lý được khoảng 25 đến 30% lượng nước thải đô thị, lượng nước thải còn lại vẫn đang được xả thẳng ra các sông, hồ. Đây là một trong những nguồn thải có khối lượng và nồng độ ô nhiễm cao, đe dọa nghiêm trọng môi trường sống của TP, đặc biệt là suy thoái nguồn nước.
Lãnh đạo TP Hà Nội cho hay theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nước sông, hồ của Hà Nội ở mức thấp, mới đạt khoảng 30% tiêu chuẩn. Nếu thực hiện các giải pháp đồng bộ, quyết liệt thì thành phố có thể sớm nâng tỉ lệ này lên 50%; ngược lại, nếu không quyết liệt, thậm chí chất lượng nước còn tiếp tục giảm.
Nỗ lực kéo giảm lượng nước bẩn ra môi trường
Hiện nay, TP. HCM đang tiếp tục đầu tư hoàn thiện một số công trình thu gom và xử lý nước thải bao gồm Nhà máy Xử lý nước thải Tham Lương - Bến Cát (công suất 131.000 m3/ngày; Nhà máy Xử lý nước thải Bình Hưng - giai đoạn 2 với công suất 470.000 m3/ngày; Nhà máy Xử lý nước thải Nhiêu Lộc - Thị Nghè (công suất 480.000 m3/ngày). Nếu đưa vào vận hành các nhà máy này, sẽ nâng tỉ lệ xử lý nước thải toàn TP đạt 45% (tương đương 1.380.000 m3/3.076.000 m3 nước thải/ngày).
Ngoài ra, có 3 nhà máy đang kêu gọi đầu tư gồm Nhà máy Xử lý nước thải Tây Sài Gòn, Tân Hóa Lò Gốm và Bắc Sài Gòn với tổng công suất 500.000 m3/ngày.
Với quy mô dân số tăng nhanh trong quá trình đô thị hóa, các chuyên gia cho rằng nhu cầu về xử lý nước thải sinh hoạt đô thị theo quy hoạch tổng thể thoát nước TP. HCM đến năm 2020 không còn phù hợp. Cụ thể, theo quy hoạch đến năm 2020 TP sẽ có 9 nhà máy xử lý nước thải, xử lý 1.950.000 m3/ngày, đến năm 2025 nâng lên 11 nhà máy, xử lý 3.076.000 m3/ngày.
TP. Hà Nội cũng đặt mục tiêu đến năm 2025 đạt tỉ lệ xử lý nước thải 50-55%. Thời gian qua, công tác triển khai xây dựng dự án hệ thống xử lý nước thải Yên Xá, một trong những công trình trọng điểm cải thiện môi trường của TP Hà Nội, được Thành ủy, UBND TP quan tâm chỉ đạo sát sao. Dự án Hệ thống xử lý nước thải Yên Xá gồm 4 gói thầu, trong đó gói thầu số 1 là xây dựng nhà máy công suất 270.000 m3/ngày - đêm và 3 gói thầu thu gom nước thải gắn với sông Tô Lịch, sông Lừ, một phần sông Nhuệ và các khu đô thị mới. Dự án này được kỳ vọng làm "sống lại" sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét và một phần sông Nhuệ… UBND TP cho biết sẽ tập trung thúc đẩy tiến độ đồng bộ cả 4 gói thầu, phấn đấu hoàn thành gói thầu số 1 trong quý I/2022.
TS Phạm Viết Thuận, Viện trưởng Viện kinh tế tài nguyên và môi trường TP. HCM, cho rằng để xử lý nước thải sinh hoạt tại đô thị lớn như TP. HCM đạt hiệu quả cao cần nhìn ở góc độ tổng thể. Hiện nay, hạ tầng thu gom nước thải của các TP là thu gom chung cả nước mưa, nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp và cả nước biển. Do đó, nếu đưa lượng nước thải này về một nhà máy để xử lý thì không có quy trình công nghệ nào có thể xử lý hết được. Chưa kể, muốn đầu tư hàng loạt nhà máy xử lý nước thải này, cần phải tốn cả chục tỉ USD, nguồn vốn từ ngân sách không đảm đương nổi, còn kêu gọi nhà đầu tư thì phải chờ đợi lâu.
Theo TS Thuận, nên khoanh vùng thu gom theo từng vùng, sau thu gom sẽ đưa toàn bộ nước thải vào hồ sinh thái, xử lý bằng hệ thống sục khí tạo ôxy cho vi sinh vật phát triển, tự cải thiện chất lượng nước theo thời gian. Ngoài chia nhỏ vùng thu gom, chính quyền TP cần quản lý "đầu vào" các nguồn xả thải, sớm nghiên cứu có chính sách yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất bột giặt, nước giặt, các loại mỹ phẩm... chuyển sang công nghệ không sử dụng xút tổng hợp mà sử dụng xút hữu cơ, thân thiện cho môi trường.
"Nếu xây các nhà máy xử lý nước thải theo quy hoạch thì cần phải hoàn thiện hạ tầng thu gom, tách biệt giữa nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp... để việc xử lý đạt hiệu quả", TS Thuận đề xuất.
Ô nhiễm nước sông Nhuệ gần như không thể dùng cho các ngành kinh tế
Tối 22/11, tại Bảo tàng tỉnh Phú Yên, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Bến Vũng Rô và hoạt động tiếp nhận chi viện từ những chuyến Tàu Không số”. Hoạt động nhằm hướng đến kỷ niệm 60 năm Bến Vũng Rô tiếp nhận chuyến hàng đầu tiên của Tàu Không số (28/11/1964 – 28/11/2024).
Thời gian qua, tỉnh Nghệ An triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, cơ chế, chính sách thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, bước đầu đạt được những kết quả tích cực. Đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) nâng cao ý thức tự lực, tự cường vươn lên phát triển kinh tế, xây dựng cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo nên diện mạo mới cho nông thôn miền núi xứ Nghệ.
Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về bảo hiểm tiền gửi (BHTG) 2024 là một hoạt động quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của công chúng về chính sách BHTG và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), qua đó truyền tải nội dung chính sách BHTG một cách mới mẻ, hấp dẫn và thu hút sự quan tâm của công chúng.