Sáng nay (16/4), Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức họp báo công bố Luật Phòng, chống ma túy.
Luật này được Quốc hội XIV thông qua tại kỳ họp thứ 11 ngày 30/3/2021, gồm 8 chương, 55 Điều.
Theo Thượng tướng Lê Quý Vương, Thứ trưởng Bộ Công an, Luật quy định cụ thể chính sách phòng, chống ma túy, trong đó nhấn mạnh “Ưu tiên nguồn lực phòng, chống ma túy cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, khu vực biên giới và địa bàn phức tạp về ma túy”, cán bộ, chiến sỹ thuộc cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy, người làm công tác cai nghiệp ma túy trong các cơ sở cai nghiện ma túy công lập được hưởng chế độ, chính sách ưu đãi phù hợp với tính chất nhiệm vụ, địa bàn hoạt động theo quy định của Chính phủ”.
Quy định thêm một số hành vi bị nghiêm cấm như: Nghiêm cứu, kiểm nghiệm, kiểm định trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dung làm thuốc, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất; chống lại hoặc cản trở việc xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể, xác định tình trạng nghiện ma túy, quỷ lý người sử dụng trái phép chất ma túy, quản lý sau cai nghiện ma túy;…
Thượng tướng Lê Quý Vương nhấn mạnh: Quy định mới của Luật so với Luật Phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2008 là quản lý người sử dụng trái pháp chất ma túy.
Luật quy định cụ thể trường hợp bị xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể (Điều 22) để các cơ quan chức năng có căn cứ khách quan xác định người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và giám sát người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Người sử dụng trái phép chất ma túy được lập danh sách và quản lý, theo dõi, hỗ trợ ngay từ lần đầu bị phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và đây không phải là biện pháp xử lý vi phạm hành chính (Điều 23).
Luật Phòng, chống ma túy sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2022.
Trong hơn 40 năm qua, kể từ khi thực hiện Khoán 100 (Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp), rồi Khoán 10 (Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.