Sau khi thông báo ông Tr là F1 của bệnh nhân dương tính Covid-19 khi đi khám bệnh ở Bệnh viện Bạch Mai, cơ quan chức năng liền đi lấy mẫu xét nghiệm song ông Tr. đã qua đời 1 ngày trước do ung thư.
Ngày 15/5, Trung tâm Y tế TP. Vinh cho biết, trên địa bàn thành phố vừa xảy ra một vụ việc khá hy hữu liên quan đến dịch bệnh Covid-19. Đó là một trường hợp F1 tử vong khi chưa kịp lấy mẫu xét nghiệm.
Trường hợp này là ông Lương Quốc Tr. (88 tuổi, trú phường Lê Mao). Ông Tr. là bệnh nhân ung thư.
Vào ngày 28/4, ông đến thăm khám ở Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội). Trở về quê, người đàn ông này được người nhà đưa vào điều trị ở Bệnh viện Đa khoa TP. Vinh và Bệnh viện Ung bướu tỉnh Nghệ An.
Sáng ngày 13/5, Bộ Y tế công bố ca bệnh 3491 từng đến Bệnh viện Bạch Mai khám bệnh vào ngày 28/4 và ông Tr. được các định là F1. Ngay lập tức, Trung tâm y tế TP. Vinh đã liên hệ để lấy mẫu xét nghiệm thì được biết ông Tr. đã tử vong trước đó 1 ngày và chưa được chôn cất.
Cơ quan chức năng đã có mặt ở đám tang đề nghị lấy mẫu xét nghiệm nhưng do quan tài đã đóng, người nhà ông Tr. không đồng ý. Do không thể lấy mẫu F1, nên cơ quan y tế quyết định nâng cấp phòng dịch. Theo đó, tất cả các trường hợp tiếp xúc với ông Tr. từ khi ông này từ Bệnh viện Bạch Mai trở về đều phải cách ly tại nhà 21 ngày, lấy mẫu xét nghiệm 3 lần theo quy định.
Trong số 33F2 phải cách ly tại nhà, ngoài người thân trong gia đình, có không ít người là nhân viên y tế Bệnh viện Đa khoa TP Vinh, bệnh nhân và nhân viên y tế của Bệnh viện Ung bướu Nghệ An.
Thậm chí, sau khi nhận được thông tin, Bệnh viện Ung bướu Nghệ An lập tức phong tỏa Khoa Hồi sức Cấp cứu trong vòng 14 ngày, bao gồm toàn bộ cán bộ y tế và người bệnh, thực hiện “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”; lấy mẫu xét nghiệm toàn bộ cán bộ y tế và người bệnh gửi CDC Nghệ An xét nghiệm. Nguyên nhân do trước khi mất, cụ ông này từng điều trị tại đây.
Đến nay, tất cả các mẫu xét nghiệm cũng đều có kết quả âm tính với virus SARS-CoV-2. Hiện, các cơ quan y tế Nghệ An đang tiếp tục điều tra, truy vết; khoanh vùng F3 để cách ly khi cần thiết.
Trong hơn 40 năm qua, kể từ khi thực hiện Khoán 100 (Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp), rồi Khoán 10 (Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.