Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024  
Thứ sáu, ngày 18 tháng 8 năm 2017 | 4:34

Người “bắt” trai nhả ngọc ở môi trường nước ngọt

Sở dĩ Trương Đình Tùng (sinh năm 1992) ở thôn Dạo Lưới, xã Đông Hưng (Lục Nam - Bắc Giang) được gọi là “Tùng ngọc trai” bởi anh đã thành công với mô hình nuôi, cấy ghép trai nước ngọt lấy ngọc xuất khẩu. Với mô hình này, Tùng là người đầu tiên đưa kỹ thuật mới về áp dụng tại Bắc Giang.

Theo anh Tùng, kỹ thuật cấy ghép tế bào trai là công đoạn khó khăn, tỉ mỉ nhất trong các công đoạn.

Như nhiều sinh viên khác, sau khi học hệ cao đẳng ra trường, Tùng về quê song rất khó xin việc. Năm 2015, anh  được người bạn giới thiệu về mô hình nuôi, cấy ghép trai lấy ngọc khá mới mẻ ở Ninh Bình. Vì tò mò, ham học hỏi, Tùng  lặn lội vào Ninh Bình tìm hiểu và nhận thấy, đây là mô hình kinh tế mới, có nhiều tiềm năng nên quyết tâm áp dụng.

Tùng chia sẻ: “Khi tôi đưa ra quyết định sẽ theo nghề này, bố mẹ tôi phản đối kịch liệt và cho rằng tôi mơ hồ, viển vông vì không học hành qua trường lớp nào liên quan đến nông nghiệp. Mặt khác, từ trước tới nay, cũng chưa thấy ai nuôi, cấy ghép trai lấy ngọc từ nước ngọt, không biết chất lượng sẽ ra sao, làm ra có tiêu thụ được hay không”. 

Vốn là người có tố chất thông minh, năng động nên sau hơn một năm học nghề tại Ninh Bình, tháng 6/2016, Tùng về quê xây dựng trang trại lập nghiệp. Với 5 sào (1 sào Bắc Bộ = 360m2) mặt nước, Tùng nuôi khoảng 10.000 con trai. Thời gian đầu bắt tay vào nuôi, Tùng gặp không ít khó khăn bởi yếu tố thời tiết, do nhiệt độ thời điểm nuôi quá cao nên tỷ lệ sống của trai chỉ đạt 60%, thấp hơn 25% so với dự kiến ban đầu.

Tuy nhiên, bằng sự mày mò, ham học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, theo thời gian, những hạn chế trên dần được khắc phục. Điểm mới của kỹ thuật này là trai được nuôi, cấy ở vùng nước ngọt,  sử  dụng phương pháp cấy ghép vào túi tinh (trai ở vùng nước mặn thì cấy vào nội tạng). Phương pháp nuôi, cấy vô cùng công phu từ việc vệ sinh môi trường nước, chọn nhiệt độ phù hợp đến thức ăn...

Tùng cho biết, có thể nói, kỹ thuật cấy ghép tế bào trai là công đoạn khó khăn, tỉ mỉ nhất trong các công đoạn. Ở khâu này, người nuôi sử dụng các dụng cụ chuyên dụng cắt tế bào con trai non từ 8-12 tháng để tạo ra các miếng tế bào khác, mỗi miếng tế bào có kích thước 0,22mm, tương ứng với các viên nhân. Mỗi con trai sẽ được cấy 2 nhân trên 2 màng áo ngoài. Nếu như dải tế bào không vuông, vết cắt không gọn, khi thu hoạch viên ngọc sẽ bị lỗi.

Mặt khác, vết mổ không chuẩn rất dễ rách màng áo ngoài khiến trai nhả nhân. Trai sau khi được cấy ghép, tế bào phải được nuôi trong môi trường nước bảo đảm, theo dõi trong vòng 48 tiếng, có chế độ chăm sóc đặc biệt; nếu nhiệt độ quá nóng hay quá lạnh cũng khiến trai bị chết. Thông thường, để có ngọc trai đẹp, chất lượng, phải mất 2 năm từ khi cấy ghép cho đến lúc thu hoạch.

Theo Tùng, môi trường nước ở  Bắc Giang rất phù hợp để nuôi cấy trai nước ngọt do ít bị nhiễm phèn. Nếu như nước bị xử lý hóa chất sẽ làm mất vẻ đẹp thuần khiết của viên ngọc. Màu tím là màu chủ đạo của ngọc trai, nếu muốn tạo màu trắng phải lai chéo. Đầu tư một con trai để nuôi, cấy ghép chỉ hết 35.000 đồng. Hiện tại, một viên ngọc trai loại trung bình trên thị trường có giá từ 400.000-800.000 đồng, trai loại đẹp, cao cấp từ 2-4 triệu đồng/viên. Hiện, Tùng đã đầu tư hơn 1 tỷ đồng cho mô hình nuôi, cấy ghép trai nước ngọt lấy ngọc xuất khẩu, dự kiến đến năm 2018 sẽ cho thu hoạch.

Về định hướng trong thời gian tới, Tùng cho biết, sau khi trang trại phát triển ổn định, anh sẽ đầu tư dây chuyền máy móc hiện đại để chế tác sản phẩm. Mặt khác, chú trọng vào thị trường nội địa, nhiều tiềm năng để có lợi nhuận cao hơn.

Mới đây, đoàn công tác của Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Giang đã về nhà Tùng để tham quan, khảo sát mô hình. Theo ông Dương Thanh Tùng, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Giang, đây là mô hình kinh tế rất mới ở Bắc Giang cũng như trên cả nước, sử dụng kỹ thuật tiên tiến. Dựa trên kết quả bước đầu của mô hình, thời gian tới, Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Giang sẽ xem xét, phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu, đánh giá toàn diện làm cơ sở để hướng dẫn thực hiện các dự án, đề tài khoa học.       

 Hoàng Văn

 

 

KTNT
Ý kiến bạn đọc
Top