Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ sáu, ngày 26 tháng 4 năm 2024  
Thứ năm, ngày 24 tháng 12 năm 2015 | 7:13

Người lính với trên 300 trận đánh lịch sử

Mặc dù đã bước vào tuổi “xưa nay hiếm” nhưng ông vẫn rất nhanh nhẹn, đầu óc minh mẫn. Khi kể về những trận đánh của mình, giọng ông sôi nổi, phấn khích đầy tự hào.

Một ngày cuối năm, tôi tìm về xã Duy Minh (Duy Tiên - Hà Nam) tìm gặp ông Vũ Quang Thuận, sinh năm 1937, người đã từng vào sinh ra tử ở nhiều chiến trường, tham gia hơn 300 trận đánh lớn nhỏ.

Ông Thuận mãi tự hào với những năm tháng chiến trận của mình. 

Hành trình Nam tiến

Câu chuyện bắt đầu từ cuối tháng 4/1958, ông trúng tuyển nghĩa vụ quân sự. Lúc này, chàng tân binh của làng Ninh Lão mới 21 tuổi. Sau ba tháng huấn luyện, ông được phân công về Đại đội 1, Tiểu đoàn 17, Pháo binh 120 ly mặt đất thuộc Trung đoàn 46, Quân khu 3 Nam Định. Với phẩm chất nhanh nhẹn, luôn đạt thành tích xuất sắc trong rèn luyện, năm 1960 ông được đứng vào hàng ngũ của Đảng, được đơn vị cử đi học lớp tiểu đội trưởng, học viết văn và sáng tác kịch của Trung đoàn 46, học lớp địa chất công trình quốc phòng.

Đầu năm 1962, ông chuyển về Ty Công nghiệp Hà Nam với cương vị Bí thư đoàn chuyên trách, Chi ủy viên Chi bộ nhà máy gỗ rồi cưới vợ sau đấy hai năm. Cũng chính thời gian này xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ (5/8/1964), đế quốc Mỹ chính thức dùng không quân đánh phá miền Bắc.

Ngày 7/3/1965, ông nhận lệnh tái ngũ, đợi ngày Nam tiến. Ông ra trận và nhớ như in lời hứa với mẹ lúc lên đường: “Con sẽ về khi chiến tranh kết thúc”. Lời hứa ấy xuôi theo nước mắt trên gò má gầy hao của mẹ và khuất dần trong đoàn xe nhận quân.

Tháng 6/1965 đoàn quân của ông chính thức lên tàu vào Nam. Địa điểm dừng chân đầu tiên là Lệ Thủy (Quảng Bình). Đây là vùng đồng bào dân tộc Vân Kiều sinh sống và là nơi tập kết quân từ Bắc vào Nam chi viện cho chiến trường Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, chiến trường Bình Trị Thiên – là trạm đầu tiên trên tuyến đường Trường Sơn.

Từng đoàn quân, với “bước chân nát đá”, “mối thù nặng vai” leo lên từng bậc núi đá tai mèo dựng đứng điệp trùng. Lúc này, ai nấy đều mệt mỏi, đôi chân phồng rộp. Cứ thế, vừa đi vừa nghỉ, càng vào gần Nam, cảnh chiến tranh càng tàn khốc, hai bên đường hành quân nhiều đoạn trống vắng, cây cối ngổn ngang một màu đen do bom đạn đốt cháy, những hố sâu rộng hàng chục mét cày xới tung tóe từng gốc cây, nhuộm một màu đỏ quạch của đất đỏ ba gian.

Đối mặt quân thù

Ông vẫn nhớ trận đánh đầu tiên của Tiểu đoàn 7 thuộc Trung đoàn 3 Sao Vàng, Sư đoàn 22 vào đại đội Bảo an ở núi Thụ (Quảng Ngãi), do bị lộ bí mật tác chiến nên 20% quân số đã nằm lại với “đất mẹ”. Cũng từ bài học đầu tiên đó mà sau này bản thân ông và tiểu đoàn đã thận trọng hơn, từ đó ít tổn hao hơn. Với  khả năng phân tích, chuẩn bị chiến trường, tổ chức cách đánh hợp lý nên ông được cấp trên tín nhiệm phong quân hàm, chức vụ. Chính sáng kiến của ông về “đánh địch công kiên có hỏa lực mạnh” đã được cấp trên đưa vào giáo trình giảng dạy chiến thuật cho bộ đội.

Từng sống chết với bao trận đánh ác liệt ở Minh Long, Núi Thụ, Hoài Nhơn, Tư Nghĩa, Đá Chẻ, Đức Phổ… nhưng có lẽ trận đánh khiến ông nhớ nhất là trận Bình Đông (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi). Lúc này ông là Trung đội trưởng Trung đội 1, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 22, Sư đoàn 3.

Đó là những ngày cuối tháng 6/1969, đơn vị hành quân qua làng Bình Đông, quan sát có điểm bất lợi do đây là đồng bằng, không có địa hình che khuất, địch có thể tấn công bất cứ lúc nào. Chưa dứt nỗi lo, ông bất ngờ nghe tiếng pháo, hỏa lực, cối 60 ly, xe tăng của địch tiến sát đơn vị khoảng 150 mét rồi dội đạn vào đội hình của ta.

Với cương vị đại đội trưởng lại kinh qua nhiều trận địa, ông bình tĩnh quán triệt anh em phải đợi cho xe tăng lại gần khoảng 50 mét trở lại mới được nổ súng B40, B41. Để lấy khí thế, ông dùng khẩu B40 của đồng chí xạ thủ nhằm vào chiếc xe tăng đầu đàn của địch bóp cò. Nó khựng lại bốc cháy, khói đen thành cột, lính Mỹ lùi xa, bắn liên tiếp cối M79 vào vị trí của ông. Sau phát đạn đầu ông khai hỏa, các mũi khác cũng bắn cháy thêm 2-3 chiếc xe tăng. Gần 1 tiếng đồng hồ cầm cự, đại đội của ông đã thương vong tới 1/3 quân số. Lúc này, địch lại tiếp viện thêm xe tăng và đông quân hơn. Thậm chí “chúng tôi bắn không xuể”, ông Thuận nói.

Hòng xóa sổ đại đội của ông, khoảng 15 giờ chiều, địch tiếp viện thêm lực lượng. Lần này xe tăng nhiều hơn nhưng lính bộ binh ít hơn và tiến sát vào trận địa. Nắm trước tình thế và thực lực của ta, do không còn đạn B40 và B41, hơn nữa ba máy PRC25 đều bị phá hỏng nên không liên lạc được với tiểu đoàn. Ông nghĩ ra phương án và quán triệt anh em dùng súng AK bắn tỉa những tên nhô đầu lên nóc xe tăng buộc chúng phải tụt xuống. Đồng thời, dùng đạn bắn xối xả vào đầu xe như hàng ngàn chiếc búa đinh đập vào khiến chúng bị tiếng vọng không chịu được phải lui lại.

“Không bắt được hổ”, lại thương vong nhiều, khoảng 20 giờ cùng ngày địch gần như rút hẳn, lúc này ông tranh thủ cho sơ cứu thương binh, chôn cất những người hy sinh và cho trinh sát tìm đường rút quân khỏi trận địa. Ông còn nhớ khi về đến tiểu đoàn đã 9 giờ sáng ngày hôm sau, đích thân Tiểu đoàn trưởng Phan Thao ra bắt tay, xin lỗi rồi giải thích vì máy liên lạc bị phá hỏng, cử người đến đại đội ông truyền lệnh lui quân nhưng nửa đường đã hy sinh.

Theo thống kê của trinh sát trận Bình Đông, quân ta hy sinh 56 đồng chí; số lính Mỹ tử vong khoảng 300 người, bắn cháy 10 xe tăng và một máy bay trực thăng chiến đấu.

Sau trận này, ông liên tiếp được điều 4 lần đi làm đại đội trưởng ở các tiểu đoàn trong Sư đoàn 22 với nhiệm vụ xốc lại tinh thần chiến đấu cho anh em. Tháng 7/1970 ông được phong quân hàm thượng úy và có quyết định làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9. Cũng thời gian này đơn vị của ông đưọc lệnh hành quân về tỉnh Phú Yên đánh giặc.

Đầu tháng 7/1975, ông tiếp tục tham gia đội quân tình nguyện giúp Campuchia. Đất nước hòa bình, với thành tích trên dưới 300 trận đánh lớn nhỏ, ông được giao nhiệm vụ về viết sử ở Tỉnh đội Phú Yên cuối năm 1975.  Năm 1978 – 1979 ông có quyết định ra Bắc học ngành tòa án rồi về làm thẩm phán Quân đoàn 2 đến lúc nghỉ hưu (1983).

Dấu chân người lính từng qua những trận đánh ác liệt của ông Thuận và đồng đội khiến chúng tôi thực sự thán phục, càng hiểu thêm, trân trọng hơn những hy sinh của thế hệ ông cha để đất nước có hòa bình.

Nhất Nam

 

  

 

 

KTNT
Ý kiến bạn đọc
  • Nghệ An hoàn thành hơn 8.400 căn nhà cho người nghèo

    Nghệ An hoàn thành hơn 8.400 căn nhà cho người nghèo

    Ngày 19/4, UBND tỉnh Nghệ An tổ chức sơ kết 1 năm triển khai chương trình vận động, hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà cho người nghèo, người có khó khăn về nhà ở giai đoạn 2023-2025 (Chương trình 1838).

  • “Chỉ cần sức khỏe tốt, tôi còn hiến máu cứu người”

    “Chỉ cần sức khỏe tốt, tôi còn hiến máu cứu người”

    Với 28 lần hiến máu nhân đạo, trình dược viên Từ Thị Tuyên (SN 1989), xã Thạch Thắng, Thạch Hà (Hà Tĩnh) đã trở thành tấm gương sáng trong các hoạt động an sinh xã hội, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng…

  • PVcomBank mang yêu thương đến những hoàn cảnh khó khăn tại Lào Cai

    PVcomBank mang yêu thương đến những hoàn cảnh khó khăn tại Lào Cai

    Với tinh thần tương thân tương ái, vừa qua, Đoàn Thanh niên Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam (PVcomBank) đã tổ chức chương trình từ thiện “Xuân tình nguyện 2024” để thăm hỏi, động viên và trao quà đến các em học sinh nghèo, các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn tại xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Đây là hoạt động hưởng ứng tinh thần Tháng Thanh niên và Năm Thanh niên tình nguyện của tuổi trẻ PVcomBank.

  • Thanh Hóa - Hậu phương lớn trong chiến dịch Điện Biên Phủ

    Thanh Hóa - Hậu phương lớn trong chiến dịch Điện Biên Phủ

    Cách đây 70 năm, cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta kết thúc thắng lợi bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, trở thành mốc son chói lọi bằng vàng tạc vào lịch sử dân tộc.

  • Khai mạc Lễ hội Du lịch biển Hà Tĩnh năm 2024

    Khai mạc Lễ hội Du lịch biển Hà Tĩnh năm 2024

    Tối 21/4, tại quảng trường Hồ Tùng Mậu (Khu du lịch Thiên Cầm, Cẩm Xuyên), UBND tỉnh Hà Tĩnh long trọng tổ chức khai mạc Lễ hội Du lịch biển năm 2024 với chủ đề “Hà Tĩnh – Thanh âm ngày nắng mới”.

  • Người dân Cổ Loa mong sớm xây dựng đền thờ vua Ngô Quyền

    Người dân Cổ Loa mong sớm xây dựng đền thờ vua Ngô Quyền

    Sau chiến thắng quân xâm lược Nam Hán (năm 938) trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng Vương và chọn đất Cổ Loa làm kinh đô, mở đầu cho kỷ nguyên mới của dân tộc sau gần 1000 năm Bắc thuộc. Mặc dù đóng đô ở Cổ Loa từ tiền Ngô Vương đến hậu Ngô Vương gồm 26 năm, nhưng đến nay vẫn chưa có một công trình tôn vinh Ngô Vương Quyền trên vùng đất Cổ Loa nơi ông dựng nghiệp và chọn làm kinh đô. Xây dựng đền thờ Ngô Quyền tại mảnh đất linh thiêng này là thỏa nỗi ước mong của các hậu thế.

Top