Việc giao khoán đất lâm nghiệp hiện nay còn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng nông dân thiếu đất sản xuất và tranh chấp đất giữa các công ty nông - lâm nghiệp (NLN) và người dân vẫn diễn biến phức tạp.
Dù đã thực hiện chính sách giao đất giao rừng nhưng người dân vẫn thiếu đất sản xuất, trong khi đất do các công ty NLN quản lý lại không phát huy hiệu quả.
Bài 1: Hộ nào có nhiều rừng thì giàu
Đó là câu trả lời từ người dân mà cán bộ Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn nhận được trong quá trình điều tra, khảo sát thực hiện Dự án Xây dựng khung chính sách để nâng cao hiệu quả việc tái phân bổ đất lâm nghiệp ở Việt Nam. Rất tiếc, việc giao khoán đất lâm nghiệp hiện nay còn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng nông dân thiếu đất sản xuất và tranh chấp đất giữa các công ty nông - lâm nghiệp (NLN) và người dân vẫn diễn biến phức tạp.
Kết quả bước đầu
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc thực hiện giao khoán rừng, đất lâm nghiệp, vườn cây và mặt nước nuôi trồng thủy sản theo Nghị định số 01/CP ngày 04/01/1995 và Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005, tổng diện tích giao khoán là 805.128,0ha (chiếm 21,8% tổng diện tích các công ty NLN được giao quản lý), chủ yếu là giao khoán rừng và đất lâm nghiệp (730.324,2ha, chiếm tỷ lệ 90,7%).
Đến nay, các công ty NLN đang quản lý diện tích đất lâm nghiệp khá lớn, lên đến 2.062.340ha; trong đó, diện tích đất có rừng 1.750.990ha, chiếm 85% tổng diện tích; diện tích chưa có rừng 311.350ha, chiếm 15%.
Đánh giá của Bộ Nông nghiệp và PTNT cho thấy, công tác giao khoán rừng, đất lâm nghiệp và mặt nước nuôi trồng thủy sản trong các công ty NLN, ban quản lý rừng đã làm chuyển biến căn bản trong sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp, nông nghiệp và công tác quản lý bảo vệ rừng; chủ rừng, người nhận khoán rừng yên tâm quản lý, đầu tư phát triển rừng trên diện tích được giao; góp phần nâng cao độ che phủ của rừng, đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ và phát triển rừng; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân từ sản phẩm được nhận khoán; góp phần ổn định an ninh, quốc phòng....
Giao khoán đã góp phần giải quyết đất sản xuất cho các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Đã có 112.581 hộ gia đình và cá nhân được giao khoán rừng và đất lâm nghiệp với diện tích 600.152ha, bình quân mỗi hộ gia đình và cá nhân trong công ty lâm nghiệp được nhận khoán 5,3ha và công ty nông nghiệp là 2,73ha. Công tác giao khoán đã góp phần hình thành được một số vùng nguyên liệu tập trung, cụ thể: Vùng Đông Bắc kinh doanh gỗ trụ mỏ, dăm gỗ xuất khẩu, gỗ gia dụng. Vùng trung tâm Bắc Bộ kinh doanh gỗ nguyên liệu giấy. Các tỉnh Bắc Trung Bộ kinh doanh gỗ nguyên liệu giấy, ván nhân tạo, dăm gỗ xuất khẩu và tiêu dùng tại địa phương. Các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ kinh doanh gỗ nguyên liệu giấy, ván nhân tạo, dăm gỗ xuất khẩu, gỗ nguyên liệu...
Rượu vẫn cũ
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và PTNT, công tác quy hoạch sử dụng rừng và đất lâm nghiệp trong các công ty NLN còn nhiều hạn chế, chậm rà soát điều chỉnh và tính ổn định trong quy hoạch chưa cao, quy hoạch thường xuyên bị phá vỡ. Đối tượng nhận khoán chưa thực sự được đảm bảo theo đúng quy định và các điều kiện đầu tư về vốn, lao động và lợi ích khi nhận khoán nên việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và bảo vệ rừng, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động còn hạn chế.
Việc quy định các hình thức khoán, quyền và nghĩa vụ của bên giao khoán và bên nhận khoán chưa được rõ ràng và ràng buộc cụ thể nên hiệu quả sau giao khoán thấp, đất đai sử dụng còn bị lấn chiếm, hoặc mất đất của công ty; rừng bị suy giảm cả về diện tích và chất lượng; vườn cây lâu năm bị khai thác lạm dụng quá mức.
Theo TS.Nguyễn Anh Phong, Giám đốc Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp, nông thôn (Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn), việc giao đất rừng cho chính quyền địa phương còn chậm. Sau khi chuyển đổi, tổng diện tích của công ty NLN giảm 1.868 nghìn hecta nhưng chỉ có 415.000ha đất rừng được chuyển giao cho chính quyền địa phương và chủ yếu trên giấy tờ. Công ty NLN và chính quyền địa phương chủ yếu áp dụng các tiêu chí đánh giá lên đất hoang hóa, đất của lâm trường giải thể hoặc các khu đất mà các công ty NLN không có đủ nguồn lực để quản lý và bảo vệ. Các tiêu chí khác như đất phân tán và có diện tích nhỏ, gần khu dân cư, đất sử dụng không hiệu quả,... lại ít được chú ý tới.
Kết quả là, phần lớn đất chuyển giao từ công ty NLN cho địa phương chưa được giao lại cho các hộ gia đình và cộng đồng. Ở một số vùng, đất rừng được các công ty NLN bàn giao cho chính quyền địa phương không phù hợp với điều kiện và tập quán sản xuất của người dân hoặc khó tiếp cận. Do đất được chuyển giao đơn thuần trên giấy tờ mà không tiến hành đo đạc và cắm mốc phân giới trên thực địa nên các trường hợp vừa thuộc sở hữu của công ty NLN, vừa thuộc chủ sở hữu khác khá nhiều. Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn tại các khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi có tập quán quản lý rừng theo cộng đồng.
Quá trình rà soát và giao đất rừng không có sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan, đặc biệt là người dân địa phương, là những người đang rất bức xúc về vấn đề quản lý đất rừng tại địa phương. Mặc khác, các bên liên quan trong quá trình rà soát đất rừng của các công ty NLN lại không nắm rõ đầy đủ các chính sách có liên quan, đặc biệt là chính quyền địa phương và cộng đồng. Hai lý do này dẫn đến rất nhiều bất đồng và mâu thuẫn xã hội trong việc thực hiện rà soát, phân định ranh giới đất và giao đất lâm nghiệp cho người dân địa phương.
Ông Trần Ngọc Bình, Vụ Kế hoạch tài chính (Tổng cục Lâm nghiệp) nêu một thực tế, nhiều công ty NLN khi chuyển đổi mô hình hoạt động còn lúng túng, giá trị doanh nghiệp nhìn chung thấp, thiết bị công nghệ lạc hậu; kết quả sản xuất kinh doanh và lợi nhuận không cao, khó thu hút các nhà đầu tư. Đất đai ở nhiều nơi bị tranh chấp, lấn chiếm, cấp trùng chưa được xử lý giải quyết dứt điểm; công tác đo đạc, cắm mốc, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm. Tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất, khai thác trái phép ở một số nơi vẫn diễn ra phức tạp.
Cần phải xây dựng khung chính sách
Trước sự yếu kém của các công ty NLN, các chính sách gần đây về cải cách doanh nghiệp lâm nghiệp (Nghị quyết số 30/NQ-TW ngày 12/3/2014 và Nghị định số 118/2014/NĐ-CP về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty NLN) đã nêu bật việc phải ưu tiên rà soát, thu hồi, chuyển giao và phân bổ đất rừng đang được sử dụng không có hiệu quả cho chính quyền địa phương, ưu tiên phân bổ đất rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số đang không có đất hoặc thiếu đất sản xuất trong khu vực. Đây sẽ là nguồn đất quan trọng để phân bổ cho các hộ gia đình nghèo và giúp họ cải thiện sinh kế.
Trong quá trình thực hiện Dự án Xây dựng khung chính sách để nâng cao hiệu quả việc tái phân bổ đất lâm nghiệp ở Việt Nam, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn có thực hiện phỏng vấn sâu các hộ dân nhận khoán đất rừng ở các địa phương và câu trả lời chung nhận được là: Hộ nào có nhiều rừng thì giàu.
Ông Nguyễn Hữu Tuấn ở thôn Dùm, xã Nghĩa Phương (Lục Nam - Bắc Giang) cho biết, hộ dân tộc thiểu số trên địa bàn chiếm khoảng 60% nhưng đa phần có nhiều đất rừng và thu nhập cao hơn người Kinh. Từ thực tế này, ông Tuấn kiến nghị, Nhà nước giao đất cho hộ dân quản lý và có trợ cấp chăm sóc và bảo vệ rừng cho các hộ theo diện tích được giao.
“Đất lâm nghiệp nếu giao cho hộ dân quản lý sẽ hiệu quả hơn vì người dân sống dựa vào đất và cây rừng nên sẽ chăm sóc tốt hơn, quản lý và bảo vệ chặt hơn. Như đợt giao đất cho người dân theo Nghị định 01 và Chương trình 327, chỉ sau 7 năm nhiều diện tích đồi núi trọc đã được phủ xanh. Trước đây nếu cháy rừng thì người dân ngay lập tức đến dập lửa, bảo vệ rừng cây, nay nếu có cháy thì toàn phải chờ xe cứu hỏa tới dập lửa nên mất mát nhiều. Hiện tượng phổ biến xảy ra trên đất rừng phòng hộ, rừng tái sinh do công ty lâm nghiệp quản lý đó là người dân địa bàn khác đưa người, máy móc và xe vào chặt phá, rút lõi rừng để lấy gỗ”, ông Tuấn nói.
Từ những tồn tại, hạn chế của việc giao đất giao rừng, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn cho rằng, cần phải xây dựng khung chính sách để thực hiện hiệu quả việc tái phân bổ đất lâm trường.
Theo ông Phong, cần phải rà soát, quy chuẩn lại khung pháp lý cho việc thực hiện chính sách và đánh giá hoạt động giao đất lâm nghiệp, đặc biệt là đất của lâm trường, từ kinh nghiệm quốc tế để đưa ra một hệ thống giám sát cải tiến, sáng tạo. Một khuôn khổ chính sách mới với hệ thống giám sát và đánh giá thường xuyên có sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan sẽ giúp Quốc hội và các cơ quan Chính phủ quản lý đất lâm nghiệp chủ động hơn và hiệu quả hơn; giúp người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số có quyền tiếp cận tài nguyên đất một cách minh bạch và công bằng, từ đó cải thiện sinh kế, xóa đói giảm nghèo và quản lý bền vững đất rừng.
Anh Thơ
Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính: “Thời gian, trí tuệ, quyết định kịp thời, đúng lúc là yếu tố quyết định thành công. Vừa qua Tổng Bí thư nêu lãng phí thời gian, mà thời gian là tiền bạc, sao cứ để loay hoay mãi. Phân cấp mạnh ra, quy định trong luật cho rõ cái gì được làm và không được làm để người ta sáng tạo”
Cà Mau được thiên nhiên ưu đãi với địa lý, thiên nhiên án ngữ vùng cực Nam của Tổ Quốc. Nơi đây tồn tại 3 hệ sinh thái ngập nước ngọt, lợ, mặn riêng biệt, tạo nên một môi trường phát triển kinh tế thuận lợi. Đối với du lịch, môi trường tự nhiên của tỉnh này đang là tiềm năng, vận hội mới cho ngành công nghiệp không khói phát triển.
Mỗi năm, huyện Yên Thế (Bắc Giang) bán ra thị trường trên 10 triệu con gia cầm thương phẩm, giá trị sản xuất năm 2024 ước đạt trên 1.600 tỷ đồng. Tuy chăn nuôi đã trở thành một nghề quan trọng trong kinh tế địa phương nhưng vẫn còn nhiều khó khăn trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Trước thực trạng này, nhiều giải pháp đã được đưa ra.