Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Chủ nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024  
Thứ ba, ngày 17 tháng 10 năm 2023 | 11:18

Công nghệ mới tới nông dân tạo dấu ấn tăng trưởng ngành Trồng trọt

Trong các chương trình khuyến nông, lĩnh vực trồng trọt luôn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nội dung hoạt động, với nhiều chương trình đa dạng và gắn với định hướng ưu tiên phát triển các sản phẩm hàng hóa chủ lực, có lợi thế cạnh tranh ở từng vùng miền, địa phương.

Phát triển giống lai đóng góp lớn vào an ninh lương thực quốc gia

Thực hiện phương châm “đi tắt đón đầu” để chuyển giao nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chương trình lúa lai bắt đầu từ năm 1991, được sự chỉ đạo của cố Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn và Ban Khuyến nông (tiền thân của Cục Khuyến nông, Trung tâm Khuyến nông quốc gia). Mô hình thâm canh lúa lai đầu tiên triển khai tại hợp tác xã Phú Lập (Phú Xuyên - Hà Nội), quy mô 55,3 ha, năng suất bình quân  đạt 9,6 tấn/ha.

Chủ trương phát triển lúa lai được triển khai thông qua mạng lưới khuyến nông; đến năm 2000, diện tích lúa lai đạt 330.000ha, sản lượng 1,5 triệu tấn. Mạng lưới khuyến nông đã chuyển giao công nghệ sản xuất hạt giống lúa lai với chủ trương “Nam sản, Bắc tiêu” để tận dụng lợi thế vùng miền. Từ chỗ hoàn toàn phụ thuộc giống của nước ngoài, Việt Nam đã chủ động được một phần giống thông qua chương trình khuyến nông trọng điểm sản xuất hạt lai F1, lúa lai thương phẩm, lúa chất lượng. Điển hình là dự án triển khai tại Nam Định, Hải Phòng, Yên Bái, Lào Cai, Quảng Nam, Cần Thơ…

Các đại biểu thăm mô hình sản xuất lúa tại xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Bên cạnh đó, chương trình lúa lai đã huấn luyện kỹ thuật cho hàng nghìn nông dân, tổ chức tham quan hội nghị đầu bờ cho hàng vạn người, nâng cao rõ rệt trình độ nhận thức, phương pháp tổ chức sản xuất của người dân.

Sau chặng đường 30 năm, chương trình lúa lai đã tạo nên một dấu mốc, bước ngoặt lịch sử cho sản xuất lúa nói riêng và sản xuất lương thực nói chung của nước ta. Công nghệ lúa lai đã phát triển mạnh mẽ và bền vững, góp phần đưa công nghệ trồng lúa của nước ta vươn lên trình độ cao của thế giới, nâng cao thu nhập cho nông dân và nâng cao hiệu quả nghề trồng lúa. Năm 1989, lần đầu tiên nước ta xuất khẩu gạo. Đến nay, gạo Việt Nam có mặt ở hơn 150 nước, vùng lãnh thổ, trở thành một trong 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới; từ cây lúa “cứu đói” đến hạt gạo ngon nhất thế giới.

Với những thành công trong chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về công nghệ lai, khuyến nông đã góp phần tăng nhanh năng suất, sản lượng, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Ở miền núi, tiến bộ kỹ thuật lúa lai là đột phá về năng suất, ở miền Trung, vừa có hiệu quả xoá đói giảm nghèo vừa bảo vệ môi trường, ở miền Nam là góp phần tránh thiên tai và tăng giá trị lúa hàng hoá, lúa xuất khẩu.

Trọng tâm của sự chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng

Với mục đích hướng dẫn nông dân sử dụng quỹ đất một cách hợp lý, né tránh bất lợi thiên tai và thực hiện chủ yếu ở các tỉnh miền núi, ven biển miền Trung, Đồng bằng sông Cửu Long, nội dung hoạt động khuyến nông cơ bản là chuyển từ canh tác 3 vụ lúa bấp bênh sang 2 vụ lúa ăn chắc hoặc 2 vụ lúa 1 vụ màu. Đối với các tỉnh miền núi, chủ yếu thực hiện tăng vụ trên đất 1 vụ lúa. Các mô hình đều đã trở thành tập quán mới, được nông dân các địa phương tiếp thu và nhân rộng.

 Mô hình chuyển đổi diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng cà rốt ở Đồng bằng sông Hồng.

Những năm gần đây, các mô hình chuyển đổi diện tích lúa kém hiệu quả sang phát triển cây màu, rau, hoa, cây ăn quả, mô hình chuyển đổi lúa - cá, tôm - lúa vùng đất trũng tại vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long; mô hình trồng ngô, cây đậu đỗ trên đất 1 vụ (đất bỏ hóa vụ Xuân) tại các tỉnh miền núi phía Bắc; chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang trồng ngô, đậu đỗ, trồng cỏ tại các tỉnh miền Trung đã tạo nhiều dấu ấn nổi bật.

Mô hình lúa - cá được mở rộng và đạt gần 200.000 ha, bình quân lợi nhuận 60- 80 triệu đồng/ha. Canh tác mô hình tôm - lúa đạt hơn 200.000 ha, bình quân lợi nhuận 110 triệu/ha/năm. Hằng năm, cả nước có trên 100.000ha chuyển đổi từ sản xuất lúa sang cây ăn quả, ngô, lạc, rau đậu các loại. Hiệu quả kinh tế của các mô hình cho thu nhập cao gấp 1,5-2,5 lần so với mô hình trồng lúa truyền thống.

Đối với từng loại cây trồng cũng có sự chuyển đổi rõ rệt về cơ cấu bộ giống và mùa vụ. Sử dụng giống cây trồng có thời gian sinh trưởng dài ngày sang các giống trung và ngắn ngày. Sản xuất lúa chuyển dịch từ các giống năng suất cao sang các giống lúa chất lượng phục vụ xuất khẩu. Đối với các cây trồng khác, tập trung theo hướng đa dạng hóa sản phẩm kết hợp với một số đặc tính chống chịu. Cơ cấu mùa vụ cũng có sự chuyển dịch mạnh mẽ nhằm mục đích tăng vụ và tăng hiệu quả sản xuất (các mô hình rau, cây ăn quả trái vụ).

Các mô hình chuyển đổi vụ lúa Xuân sang trồng cây công nghiệp ngắn ngày (lạc, đậu tương) ở các tỉnh miền Bắc; phát triển sản xuất cây vụ Đông ở vùng đồng bằng sông Hồng; mô hình vườn - ao - chuồng … đã góp phần thay đổi phương thức, tập quán canh tác của người dân, làm tăng thu nhập từ 25-30% so với các mô hình truyền thống, tạo niềm tin tuyệt đối của người nông dân về các chương trình khuyến nông.

Các mô hình khuyến nông về cây ngô đông, cây đậu đỗ (lạc, đậu tương), cây có củ (khoai lang, khoai tây), cây rau, hoa cho thu nhập bình quân gấp 1,5- 2,0 lần so với sản xuất lúa, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích, tăng thu cho người nông dân. Đến nay, vụ Đông vẫn được xem là vụ sản xuất chính tại nhiều địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng và các tỉnh miền Bắc.

Để triển khai hiệu quả các mô hình chuyển đổi, hệ thống khuyến nông đã phối hợp với các viện, trường xây dựng được đội ngũ đông đảo với hàng nghìn cán bộ kỹ thuật, chuyên gia nghiên cứu, chỉ đạo chọn tạo giống, giới thiệu giống mới và hoàn thiện quy trình canh tác cho cây trồng. Những mô hình sản xuất tiêu biểu được tổng kết, tuyên truyền qua các ấn phẩm khuyến nông và đài phát thanh, truyền hình. Nhiều kinh nghiệm sản xuất hay, quy trình sản xuất tiên tiến được chuyển giao, truyền đạt cho người nông dân thông qua hệ thống cán bộ khuyến nông cả nước.

Các hoạt động khuyến nông đã góp phần tạo nên những phong trào phát triển sản xuất trong nông nghiệp như phong trào phát triển cây vụ Đông, phong trào “cánh đồng 50 triệu/ha”, phong trào làm kinh tế VAC....

Những công nghệ mới cùng cánh đồng không dấu chân

Từ nền tảng của phong trào cánh đồng mẫu lớn, tạo điều kiện đẩy nhanh tỉ lệ cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất nông nghiệp trên khắp cả nước, hệ thống khuyến nông đã chuyển giao và ứng dụng cơ giới hoá vào sản xuất, đặc biệt là các khâu làm đất, tưới tiêu, thu hoạch, vận chuyển…, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ lao động thủ công sang ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ. Từ năm 2010 - 2021, mức độ cơ giới hóa khâu làm đất tăng từ 75% lên 97%, khâu gieo trồng tăng từ 15% lên 65% và khâu thu hoạch tăng từ 15% lên 80%.

Năm 2019, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức lễ phát động ứng dụng cơ giới hoá ở vùng ĐBSCL, theo đó Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã tổ chức chuỗi các sự kiện như lễ phát động, lễ ký kết giữa trung tâm khuyến nông các tỉnh, các doanh nghiệp thực hiện cơ giới hoá đồng bộ trong sản xuất lúa và cánh đồng lớn.

Năm 2022, lần đầu tiên Việt Nam đăng cai tổ chức sự kiện Agritechnica Asia Live 2022 với chủ đề “Cơ giới hóa đồng bộ hướng tới nền nông nghiệp bền vững”. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia vinh dự được Bộ Nông nghiệp và PTNT giao tổ chức sự kiện này. Sự kiện đã ghi dấu ấn lớn đối với du khách tham quan, các tổ chức quốc tế.

Thông qua các hoạt động của sự kiện đã giúp  tạo cơ hội giao thương giữa các doanh nghiệp thương mại và sản xuất máy móc và thiết bị nông nghiệp công nghệ cao; người nông dân được trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về cơ giới hoá, sản xuất nông sản, nâng cao nhận thức, năng lực về cơ giới hoá và chuyển đổi số trong tương lai.

 

 

Chanh
Ý kiến bạn đọc
Top