Ông Li Guo - điều phối viên Chương trình Quốc gia về Nông nghiệp, chuyên gia cao cấp Kinh tế Nông nghiệp của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam gọi thành tích nông nghiệp Việt Nam trong 35 năm qua là "câu chuyện thành công ở Đông Nam Á".
Phó thủ tướng Vũ Đức Đam tham quan các gian hàng Lộc Trời. Ảnh: Thanh Tùng
Chiều 20/12 diễn ra phiên toàn thể Diễn đàn Mekong Startup do lãnh đạo Chính phủ chủ trì, thảo luận vấn đề cơ hội và thách thức xoay quanh các chuỗi ngành hàng trọng điểm và toàn ngành nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long.
ĐBSCL là một trong những vùng kinh tế trọng điểm của cả nước với hoạt động kinh tế phong phú, cộng đồng doanh nghiệp lớn và phong trào khởi nghiệp mạnh... Nơi đây sản xuất nông nghiệp lớn nhất Việt Nam, với nhiều sản phẩm lúa gạo, thủy hải sản, trái cây đứng đầu cả nước lẫn xuất khẩu, góp khoảng 1/3 tổng GDP nông nghiệp.
Tuy nhiên, ĐBSCL đang đối mặt nhiều vấn đề khi chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp. Theo đó, sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, khai thác lãng phí tài nguyên thiên nhiên, phương thức canh tác lạc hậu, ô nhiễm môi trường, chất lượng và sản lượng không song hành nhau, dẫn đến hàng hóa thiếu tính cạnh tranh... Nơi đây còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu.
Một trong những điểm nhấn là thay đổi tư duy về an ninh lương thực, từ việc phát triển nông nghiệp dựa vào cây lúa sang thủy sản - trái cây - lúa gạo, phù hợp với thị trường. Trong đó, sự điều phối theo chuỗi ngành hàng, tính liên kết vùng, tiểu vùng giữa các địa phương được chú trọng ngay đầu mùa vụ, chứ không chỉ tập trung xử lý khi nông sản ùn ứ sau thu hoạch. Bên cạnh đó, cần chú trọng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Câu chuyện thành công ở Đông Nam Á
Tham dự diễn đàn, ông Li Guo - điều phối viên Chương trình Quốc gia về Nông nghiệp, chuyên gia cao cấp Kinh tế Nông nghiệp của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đánh giá cao nông nghiệp Việt Nam và cam kết đồng hành, hỗ trợ Đồng Tháp nói riêng, các tỉnh ĐBSCL nói chung thực hiện mục tiêu "Kích hoạt năng lực đổi mới phát huy vai trò SME và khởi nghiệp trên địa bàn, phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại - bền vững - phát thải thấp".
Ông Li Guo - điều phối viên Chương trình Quốc gia về Nông nghiệp, chuyên gia cao cấp Kinh tế Nông nghiệp của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. Ảnh: Thanh Tùng
Ông gọi thành tích nông nghiệp Việt Nam trong 35 năm qua là "câu chuyện thành công ở Đông Nam Á", cụ thể tăng trưởng hợp lý, đảm bảo an ninh lương thực, động lực quan trọng phát triển kinh tế, xã hội. Năm 2021, Việt Nam xuất khẩu 38 tỷ USD sản phẩm nông sản, năm nay, con số này càng vượt trội hơn, cán mốc 54 tỷ USD.
Tuy nhiên, sự suy giảm môi trường (sử dụng nhiều nước, phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật) và biến đổi khí hậu đe dọa sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam, do đó, cần có định hướng, chính sách cụ thể để giải bài toán đầy thách thức này, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho người tiêu dùng trong nước lẫn xuất khẩu.
Ông Li Guo cũng đánh giá cao những Việt Nam khi đề ra nhiều chính sách tốt, cam kết, xây dựng chiến lược biến đổi khí hậu đến tầm nhìn 2045, mức phát thải carbon thấp.
Trong đó, ông dẫn dắt Đồng Tháp đang tập trung việc đa dạng hóa sản phẩm, giảm gạo để tạo ra trái cây, cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn, kết nối du lịch, kinh tế địa phương lẫn tư nhân.
Hiện, Đồng Tháp kết hợp Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam tập trung các lĩnh vực: bảo vệ cây ăn trái, cây cảnh, đa dạng hóa sinh kế người nông dân, chống biến đổi khí hậu, tập trung sản xuất thực hành bền vững và mong ươm tạo thế hệ nông dân mới.
Ông Li Guo mong muốn nông nghiệp ĐBSCL không chỉ là thương hiệu của Việt Nam mà còn được nhận diện trên toàn thế giới. Ông và các đồng sự cũng đang xây dựng đề án liên quan nông nghiệp Việt, tiến tới mục tiêu: một triệu ha trồng gạo chất lượng cao, phát thải thấp.
Thúc đẩy đổi mới, sáng tạo
Ông Trần Thanh Nam - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát biểu khai mạc. Ảnh: Thanh Tùng
Theo ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thời gian qua, ngành nông nghiệp Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng. Từ quốc gia chủ yếu nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực mỗi năm, trở thành nước xuất khẩu nông sản top đầu thế giới, các mặt hàng nông sản có mặt tại hầu hết quốc gia và vùng lãnh thổ.
Năm nay, xuất khẩu nông sản dự kiến chạm mốc 50 tỷ USD, cho thấy lúa gạo, thủy hải sản và trái cây là lợi thế quốc gia. Thứ trưởng Thanh Nam nhấn mạnh, ĐBSCL là một trong 7 vùng kinh tế của cả nước, có nhiều tiềm năng. Nơi đây đóng góp 50% sản lượng lúa, 95% sản lượng gạo xuất khẩu, 65% sản lượng thủy sản nuôi trồng, 60% sản lượng cá xuất khẩu và gần 70% sản lượng trái cây của cả nước.
Dù đạt nhiều thành tựu quan trọng, nông nghiệp Việt Nam vẫn còn manh mún, tính liên kết chưa cao, chưa chú trọng công nghệ lẫn đổi mới sáng tạo. Ở Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về hệ thống lương thực, thực phẩm cùng năm, Việt Nam cũng đặt mục tiêu trở thành quốc gia sản xuất, cung cấp thực phẩm minh bạch - trách nhiệm - bền vững. Do đó, yếu tố xanh hơn, phát thải thấp, giá trị cao, ứng dụng sinh thái tuần hoàn đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn 2021-2030.
Thứ trưởng cho rằng, phát triển nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu và cần đầu tư phù hợp với đặc thù ngành lẫn địa phương. Ông Nam dẫn chứng những ngành khác đầu tư công nghệ hiện đại có thể sản xuất đồng loạt, ra được sản phẩm chất lượng cao. Tuy nhiên, trong ngành nông nghiệp, cần cơ khí hóa đồng bộ, tự động hóa theo chuỗi giá trị, từng khâu, từng lĩnh vực... mới đáp ứng được nhu cầu của ngành.
Tuần hoàn nông nghiệp cũng là yếu tố được ngành ưu tiên, trong đó đều cao việc tái chế, tái sử dụng. Ông Nam khẳng định, nếu xử lý tốt các phụ phẩm từ lúa gạo, thủy hải sản, trái cây tại ĐBSCL, đó sẽ là tài nguyên khổng lồ, gia tăng doanh thu cho ngành, góp phần tạo công ăn việc làm cho người dân.
Nông nghiệp xanh, giảm phát thải tại ĐBSCL cũng được xem là định hướng quan trọng, hướng đến bền vững. Theo tính toán của ngành Nông nghiệp, lượng phát thải từ lĩnh vực lương thực, thực phẩm hiện chiếm đến 19% lượng phát thải cả nước, riêng ngành lúa gạo cán 48%. Do đó, cần ưu tiên giảm phát thải.
Về khởi nghiệp, Thứ trưởng nhận định ngày càng nhiều doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất - mỗi năm có 100.000 đơn vị, tuy nhiên, chỉ có 2.000 doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, con số này khá khiêm tốn.
Ông Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của diễn đàn, kỳ vọng Mekong Startup góp phần thúc đẩy tinh thần đổi mới sáng tạo và dẫn dắt, hợp lực lẫn nhau của cộng đồng doanh nghiệp nhằm tạo ra diện mạo mới cho hệ thống chương trình, sản phẩm nông nghiệp chủ lực ở ĐBSCL, theo hướng xanh hóa và bền vững.
Chuyển đổi số giúp người dân dễ bán sản phẩm hơn
Đại diện cho lĩnh vực thủy sản là ông Nông Văn Thạch - Giám đốc HTX NNTH Ba Đình, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
Nhận diện về những thách thức, cơ hội để kích hoạt năng lực đổi mới sáng tạo và sự tham gia của SMR/Strarup trong lĩnh vực này, ông đưa ra nhận xét về mô hình HTX thích ứng tốt với biến đổi khí hậu mô, giảm chi phí. Ví dụ về mô hình lúa tôm tại HTX được các ngành chuyên môn đánh giá là mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững đối với một số địa phương tại Đồng bằng sông Cửu Long và ít tác động đối với môi trường.
Những khó khăn cũng được ông nêu ra. Cụ thể, trong thực hiện liên kết mua bán thành viên HTX và người dân đa phần chưa quen với hợp đồng kinh tế, các công ty thường đặt nhiều tiêu chí nhưng giá cả không đủ hấp dẫn cho người sản xuất, dẫn đến thường không thể ký kết hợp đồng. Hệ thống giao thông phục vụ sản xuất và vận chuyển hàng hoá còn thấp, chưa đáp ứng được nên phần nào ảnh hưởng trực tiếp đến người dân mua bán sản phẩm và các đơn vị có nhu cầu xây dựng nhà máy thu mua và chế biến tại chỗ....
Về những kiến nghị, ông cũng đưa ra những ý kiến về công tác vận động người dân tham gia HTX, thêm lớp đào tạp người dân, đầu tư hạ tầng phục vụ mô hình tôm lúa, hỗ trợ liên kết sản xuất cho mô hình...
Thách thức trong ngành lúa gạo
Ông Trần Anh Thư, Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang, khẳng định đổi mới sáng tạo chuỗi ngành hàng lúa gạo là vấn đề cấp thiết, quan trọng vì đối mặt những cơ hội và thách thức.
Về cơ hội, 13 tỉnh ĐBSCL có diện tích lớn, thời tiết, khí hậu, nước tưới và thổ nhưỡng thuận lợi cho sản xuất lúa. Mỗi năm, lượng lớn lúa gạo vùng này đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và an ninh lương thực quốc gia.
Hầu hết tỉnh ĐBSCL quan tâm, đề cao ứng dụng đổi mới sáng tạo trong sản xuất, điển hình là nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, máy móc được áp dụng. Một số tỉnh đã định hướng sản xuất lúa gạo theo các tiêu chuẩn chất lượng như lúa hữu cơ, SRP, VietGAP, GLobalGAP...
Theo Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang, một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn đã tiếp cận được những thị trường yêu cầu chất lượng cao, nâng cao thương hiệu và thị phần của hạt gạo Việt.
Chuỗi liên kết lúa gạo cơ bản đã hình thành ở các tỉnh, tùy thuộc quy mô, nhu cầu và năng lực của doanh nghiệp, cơ bản định hướng người dân thay đổi tư duy trong việc không nên sản xuất tự phát và không ký kết hợp đồng tiêu thụ với doanh nghiệp.
Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn bền vững, giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050". Bộ Nông nghiệp và PTNT dự kiến sớm ban hành các kế hoạch và chương trình hành động để giảm phát thải. Mục tiêu chính là phát triển vùng ĐBSCL đến năm 2030 trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới. Trong đó, các cơ sở cần chú trọng bao gồm phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. ĐBSCL hiện có 59.452 doanh nghiệp đang hoạt động. Trong đó, các dự án khởi nghiệp được đánh giá cao cả về ý tưởng lẫn chất lượng. Nhiều sản phẩm khởi nghiệp đặc thù địa phương được thị trường cả trong và ngoài nước đón nhận. Tuy nhiên, vị trí địa lý của ĐBSCL lại mang đến nhiều thách thức do các ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu, thiên tai, chịu nhiều thiệt hại hàng năm. Song song đó, các hoạt động sản xuất, chăn nuôi thủy hải sản cũng mang đến nhiều rủi ro về phát thải và môi trường. |
Chính Phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã có kế hoạch dài hạn quy hoạch một triệu ha lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh trong thời gian tới ở ĐBSCL.
Bên cạnh đó, ngành lúa gạo đối diện các nguy cơ, thách thức sau: ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trên diện rộng ngày càng rõ nét lên sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa, dẫn đến nguy cơ nạn đói gia tăng trên toàn cầu.
Xu thế tiêu dùng và thị trường lúa gạo có sự thay đổi về chất lượng, cụ thể nhu cầu tiêu dùng gạo trong nước và xuất khẩu tăng tỷ lệ các giống lúa có chất lượng gạo cao do thu nhập dân cư tăng.
Giá thành sản xuất lúa những năm gần đây luôn tăng do chi phí đầu vào cao hơn so với tốc độ tăng giá bán lúa, dẫn tới lợi nhuận từ đất trồng lúa và thu nhập của người dân giảm. Hệ lụy là họ tự phát chuyển đổi đất lúa không theo quy hoạch, kế hoạch hoặc ít quan tâm đầu tư thâm canh tăng năng suất và chất lượng cây lúa.
Do chuyển đổi đất lúa sang cây trồng khác và đất phi nông nghiệp, diện tích đất lúa bị thu hẹp dần, trong khi các tỉnh ĐBSCL vẫn phải thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Ngoài ra, ông Trần Anh Thư chỉ rõ chưa có nhiều đổi mới công nghệ thực sự hiệu quả trên diện rộng giúp tăng hiệu quả sản xuất, giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt tình trạng đốt rơm rạ vẫn còn phổ biến.
Khu vục này cũng chưa vận dụng được yếu tố tuần hoàn trong sản xuất, tận dụng và phát huy hiệu quả cơ hội ở từng khâu trong chuỗi sản xuất kín, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp trong hệ sinh thái lúa gạo.
Từ cơ hội, thách thức trên, ông Thư đề xuất một số định hướng về giải pháp trọng tâm, hoạt động cụ thể thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Đầu tiên, phát triển sản xuất lúa gạo theo hướng nâng cao giá trị hạt lúa trên một đơn vị diện tích đất, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm lúa gạo trên thị trường xuất khẩu.
Lấy doanh nghiệp và nông dân làm trọng tâm, tiến tới xây dựng và phát triển thương hiệu gạo Việt. Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, đưa các chính sách đòn bẩy thúc đẩy doanh nghiệp, nông dân và các thành phần tham gia cùng phát triển; tập trung mời gọi, thu hút đầu tư.
Ông gợi ý lấy ứng dụng khoa học - công nghệ làm khâu đột phá, tăng cường việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa để nâng cao chất lượng và giá trị lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Sản xuất lúa gắn với bảo vệ môi trường, từng bước tạo ra sản phẩm an toàn đáp ứng nhu cầu thị trường, sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững.
Cuối cùng, tập trung đào tạo nâng cao trình độ cán bộ kỹ thuật và trình độ của nông dân đáp ứng yêu cầu sản xuất lúa hàng hóa đạt chất lượng, an toàn. Chọn lọc và phát huy có hiệu quả các chủ trương, chính sách về phát triển nông nghiệp đã ban hành giúp tổ chức lại sản xuất, phát triển sản phẩm có nhãn hiệu, thương hiệu.
Tiềm lực lớn nuôi trồng thủy hải sản
Ông Lê Văn Sử - Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, đồng tình với phần trình bày cơ hội, thách thức của lãnh đạo các tỉnh An Giang lẫn doanh nghiệp thủy hải sản. Tuy nhiên, ông cho rằng cần đánh mạnh vào tôm, cá tra vì tiềm lực mạnh. Bên cạnh đó, dư địa phát nuôi biển tại ĐBSCL nói chung và Cà Mau nói riêng còn rất lớn, cần phát huy tiềm năng này để tạo ra ngành hàng mới (chế biến rong biển), góp phần giảm phát thải.
Ông Sử cho rằng các cấp lãnh đạo, Bộ ngành lẫn cá nhân cần định hướng các giải pháp trước mắt và dài hạn để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong chuỗi ngành hàng thủy sản khu vực ĐBSCL. Cụ thể, ông đề xuất chính quyền địa phương ĐBSCL tiếp tục tuyên truyền, tập huấn thay đổi nhận thức, thói quen của người sản xuất và tiêu dùng theo lối sống xanh, có trách nhiệm.
"Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan. Theo đó, tiếp tục đề xuất Thủ tướng Chính phủ có chính sách hỗ trợ nhiều hơn, để doanh nghiệp tham gia cùng với người dân thành lập các hợp tác xã tại vùng sản xuất thủy sản tập trung", ông nói.
Đồng thời kiến nghị Bộ ngành, các cấp hỗ trợ các hợp tác xã xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất chung, hỗ trợ hợp tác xã liên kết vớidoanh nghiệp cung ứng đầu vào và đơn vị tiêu thụ sản phẩm đầu ra tổ chức sản xuất theo liên kết chuỗi giá trị. Đồng thời sớm đầu tư hạ tầng các trung tâm đầu mối thủy sản ĐBSCL, đảm bảo phục vụ trước mắt cũng như lâu dài.
Ông cũng kỳ vọng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát, chỉ đạo điều chỉnh quy hoạch các vùng chuyên canh nuôi trồng thủy sản phù hợp với nhu cầu thị trường, đảm bảo nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, nhất là các khu, vùng nuôi tôm công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, vùng sản xuất theo hướng hữu cơ như tôm - rừng, tôm - lúa.
Đồng thời quy hoạch hệ thống cơ sở thu gom, sơ chế, chế biến thủy sản gắn với các vùng sản xuất tập trung. Đầu tư hạ tầng phải đảm bảo gắn với quy hoạch sản xuất, vừa đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất (với chất lượng cao, chí phí thấp), vừa đáp ứng yêu cầu thích ứng với biến đổi khí hậu.
Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau cũng đặt vấn đề Bộ Khoa học và Công nghệ hỗ trợ hướng dẫn các địa phương trong việc triển khai thực hiện các chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo của ngành nông nghiệp trên tất cả lĩnh vực (chế biến, nuôi trồng, liên kết sản xuất...), khuyến khích phát kiến có tính ứng dụng cao từ các công trình nghiên cứu; có sự ưu đãi, hỗ trợ thương mại hóa đối với các sáng kiến có tính ứng dụng cao.
"Cụ thể, ưu tiên ứng dụng số, trí tuệ nhân tạo (AI) và internet vạn vật (IoT) vào quản lý, vận hành và tổ chức sản xuất đối với các khu, vùng sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao; tăng chế biến tinh, chế biến sâu; giảm dần xuất khẩu nông sản thô; ứng dụng chuyển đổi số kiểm soát được chất lượng, quản lý khai thác và truy xuất nguồn gốc thủy sản và giới thiệu, quản bá sản phẩm thủy sản...", ông nói thêm.
Giải pháp tối ưu chi phí logistics
Ông Nhữ Đình Thiện - Phó tổng thư ký Hiệp hội Đại lý và môi giới hàng hải Việt Nam (VISABA), Phó tổng giám đốc K’Line Gemadept Logistics có phần chia sẻ về giải pháp tối ưu chi phí logistics cho ngành nông nghiệp và những hành động ưu tiên cần triển khai.
Ông Nhữ Đình Thiện - Phó tổng thư ký Hiệp hội Đại lý và môi giới hàng hải Việt Nam (VISABA). Ảnh: Thanh Tùng
Cụ thể, ông đề xuất sản xuất doanh nghiệp đi đôi với hàng hóa, hoàn thiện chuỗi cung ứng để giảm chi phí. Giải pháp trước mắt là phát triển giao thông đường thủy, tận dụng nguồn tài nguyên nước sẵn có của ĐBSCL. Theo đó, đơn vị đã triển khai vận tải bằng container từ Cần Thơ - TP HCM và ngược lại. Thời gian vận chuyển hiện 30-36 tiếng, còn khá lâu. Chi phí có giảm so với đường bộ song vẫn chưa tối ưu. Đơn vị đề xuất phát triển tuyến vận tải mới từ cảng Cái Mép đến cảng Cần Thơ trên sông Mekong để giải quyết các "điểm yếu" còn tồn đọng và tối ưu chi phí.
Phía Bộ GTVT cũng đã thống nhất chủ trương tuy nhiên hiện đơn vị vẫn chưa có tàu đủ chuẩn vận chuyển biển. Theo đó, đơn vị đề xuất hỗ trợ đóng thêm các phương tiện có tải trọng lớn và độ bền đạt chuẩn để sớm triển khai tuyến hàng hải mới này, giúp tiết kiệm chi phí, từ đó tạo đà chạm đến các quốc gia lớn như Mỹ, châu Âu... nhanh chóng, an toàn.
Phải làm tất cả mọi thứ với tinh thần đổi mới
Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đánh giá Mekong Startup 2022 là diễn đàn đầu tiên liên quan đến công nghệ với sự góp mặt của cộng đồng đổi mới sáng tạo, startup tại Đồng Tháp và các tỉnh lân cận trong khu vực ĐBSCL.
Diễn đàn thể hiện được quyết tâm đổi mới sáng tạo của các lãnh đạo và cộng đồng startup trong khu vực. Đây cũng chính là mối quan tâm lớn của Phó thủ tướng khi tham gia trong chương trình lần này. Ông trông đợi nhiều yếu tố "startup" hơn để thể hiện được khát vọng, tinh thần và không khí sôi động của cộng đồng sáng tạo.
Phó thủ tướng Vũ Đức Đam kỳ vọng Mekong Startup 2022 sẽ thể hiện được khát vọng, tinh thần và không khí sôi động của cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo. Ảnh: Thanh Tùng
Chia sẻ về vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế, Phó thủ tướng cho biết hiện nước nhà có 10 nhóm hàng nông nghiệp thuộc top 10 xuất khẩu thế giới như tôm, cá tra, cà phê, các sản phẩm từ lâm nghiệp, cao su, gạo chè... Vị thế cao hiện tại đều là công sức, sự nỗ lực và thành quả của những người làm nông nghiệp.
Song hành cùng thành tựu trên, Việt Nam cũng có những cam kết, kế hoạch quốc gia hướng đến bền vững. Phó thủ tướng cho biết những kế hoạch này đều được đánh giá cao trên trường quốc tế. Điều đó thể hiện Việt Nam có trách nhiệm với môi trường thế giới, đồn thời xác định rằng ngoài đảm bảo an ninh lương thực cho hơn 100 triệu dân, Việt Nam cũng sẽ cố gắng góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho thế giới, sẵn sàng vì mình và cộng đồng quốc tế.
Mặt khác, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam cũng cổ vũ khát vọng, khơi dậy tinh thần để không còn là quốc giá có mức thu nhập trung bình thấp. "Đại hội Đảng đã đặt mục tiêu tăng trưởng tối thiểu 7%/năm trong những năm tới. Chúng ta phải xác định 7% không phải bất khả thi vì vẫn còn rất nhiều dư địa để phát triển. Một trong những yếu tố giúp hiện thực hóa mục tiêu đó là khơi dậy ý chí, khát vọng, tinh thần 'không thể cứ để quốc gia nghèo như vậy' trong tất cả người dân để cùng nhau phấn đấu", ông khẳng định.
Với sự góp sức của các doanh nghiệp startup tại ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung, Phó thủ tướng khuyến khích các đơn vị, địa phương có thể luân phiên tổ chức những diễn đàn, sự kiện tương tự, không ngừng đổi mới sáng tạo, luôn có những cách làm mới.
"Quan trọng nhất vẫn là phải làm tất cả mọi thứ với tinh thần đổi mới", ông nhấn mạnh.
Những sự kiện tương tự Mekong Startup 2022 sẽ là nơi quy tụ của Chính phủ, doanh nghiệp lớn cùng cộng đồng startup để cùng chung sức hiện thực hóa khát vọng sáng tạo. Sự cổ vũ về tinh thần và hỗ trợ từ chính quyền cũng sẽ giúp cộng đồng startup dễ dàng tiếp cận và triển khai dự án, ý tưởng sáng tạo của họ. Các ý tưởng về biến đổi khí hậu, mô hình kinh tế tuần hoàn cũng được Phó thủ tướng nhận xét là đúng đắn và đánh giá cao khi có nhiều chiến lược, kiến nghị sáng tạo.
Ông đề nghị các tỉnh và bộ nông nghiệp có văn bản cụ thể về các nội dung trong diễn đàn, trình Chính phủ để có kế hoạch đồng bộ. Trong đó, nên kiến nghị có thêm nhiều các sự kiện tương tự diễn đàn, để có thể gặp gỡ, chia sẻ, tìm hướng giải quyết các bài toán nông nghiệp chuyển đổi và nhất là lan tỏa tinh thần khởi nghiệp, cách làm mới mẻ, sáng tạo.
Đồng thời, Phó thủ tướng đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với các tỉnh về định hướng sử dụng quỹ đất, giống cây trồng, nâng giá trị sử dụng nông sản. Đây mới là điều quan trọng. ĐBSCL cũng cần có các chính sách đầu tư khai thác triệt để, góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước.
Cam kết giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp tại khu vực ĐBSCL
Lãnh đạo Bộ, ngành các cấp cùng thực hiện "nỗ lực quốc gia nhằm giảm ít nhất 30% tổng lượng phát thải khí mê tan vào năm 2030 so với mức năm 2020 trong các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi". Từ năm 2023, chuyển dịch mạnh mẽ hoạt động trồng trọt và chăn nuôi tại khu vực ĐBSCL theo hướng khuyến khích ứng dụng công nghệ sạch, công nghệ thu giữ, sử dụng khí mê tan và tạo mọi thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, cộng đồng, tổ chức trong và ngoài nước tham gia giảm phát thải khí mê tan. Từ năm 2024, chấm dứt việc đốt phế, phụ phẩm nông nghiệp thông qua việc cải tiến, áp dụng trên diện rộng quy trình công nghệ. Đến năm 2025, cam kết đạt chỉ tiêu giảm tổng lượng phát thải khí mê tan trong trồng trọt và chăn nuôi. Đến năm 2030, cam kết đạt chỉ tiêu giảm tổng lượng phát thải khí mê tan tại ĐBSCL trong trồng trọt và chăn nuôi. |
Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim cho biết, chuyến thăm chính thức của Tổng Bí thư Tô Lâm tới Malaysia lần này có ý nghĩa quan trọng khi hai nước nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực an ninh, quốc phòng, hợp tác biển và một số lĩnh vực hợp tác về điện, kinh tế số…
Biến đổi khí hậu, thời tiết ngày càng cực đoan, thiên tai ngày càng phức tạp, gây nhiều thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp. Tại tỉnh Quảng Bình, nông dân đã triển khai nhiều mô hình chuyển đổi trên đất gò đồi, đất kém hiệu quả để thích ứng, giảm nhẹ tác động của các loại hình thiên tai đối với sản xuất nông nghiệp, mang hiệu quả kinh tế cao.