Một trong những điểm nhấn nổi bật trong "bức tranh" xuất khẩu nông lâm thủy sản từ đầu năm đến nay là kết quả xuất khẩu đồ gỗ và các sản phẩm từ gỗ. Đây là 1 trong 6 mặt hàng có thặng dư thương mại đạt trên 1 tỷ USD và hứa hẹn sẽ lập kỷ lục mới xuất khẩu trong năm 2024.
Ngành gỗ đã đón những tín hiệu tích cực và đang trở lại quỹ đạo tăng trưởng như thời kỳ hoàng kim.
Mức tăng trưởng ấn tượng
Năm 2024, Bộ Nông nghiệp và PTNT đặt mục tiêu đạt 14,2 tỷ USD xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, tăng 6% so với năm 2023. Tuy nhiên, đến thời điểm này, đã hoàn thành gần hơn 90% kế hoạch đề ra cho năm 2024.
Số liệu từ Bộ Nông nghiệp và PTNT cho thấy, từ đầu năm đến hết tháng 10/2024, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Việt Nam đã đạt 13,2 tỷ USD, tăng gần 21% so với cùng kỳ năm ngoái. Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc và Nhật Bản.
Theo đánh giá của Hiệp hội Gỗ Việt Nam (Vifores), giai đoạn 2010-2022, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ luôn có tốc độ tăng trưởng cao, mỗi năm tăng 25 - 45%. Đến năm 2023, xuất khẩu ngành hàng này đã bị suy giảm, nhưng sang năm 2024, ngành gỗ đã đón những tín hiệu tích cực và đang trở lại quỹ đạo tăng trưởng như thời kỳ hoàng kim. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ đã phục hồi nhanh hơn dự báo và cao hơn nhiều ngành hàng khác.
Đạt kết quả trên do ngành gỗ Việt Nam đã và đang mở rộng thị trường xuất khẩu, thâm nhập sâu hơn vào các thị trường quan trọng như Mỹ, châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản và ngày càng hiện diện nhiều hơn tại các thị trường mới nổi như UAE, Ấn Độ...
Bên cạnh đó, tiêu dùng tại các thị trường lớn bắt đầu phục hồi, kỳ vọng cho ngành hàng này có cơ hội tăng tốc xuất khẩu trước mắt trong quý IV và cả năm 2024.
Ngành gỗ tăng tốc về đích sớm
Vifores dự báo, với đà tăng trưởng này, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của cả năm có thể khả quan bởi thông thường, trong quý cuối năm là cao điểm mua sắm của người tiêu dùng tại nhiều nước, do đó, khả năng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sẽ tăng tốc về đích. Nếu không có những bất trắc, cả năm 2024, kim ngạch xuất khẩu gỗ, sản phẩm gỗ và các loại lâm sản ngoài gỗ có thể đạt trên 16 tỷ USD.
Để phấn đấu đạt và vượt các mục tiêu xuất khẩu, theo các chuyên gia, cơ quan quản lý Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách đã ban hành, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào việc phát triển rừng trồng, chế biến gỗ và lâm sản. Đồng thời, làm tốt công tác tuyên truyền, tổ chức các hội chợ triển lãm, xúc tiến đầu tư để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm gỗ…
Cuối năm là cao điểm mua sắm của người tiêu dùng tại nhiều nước, do đó, khả năng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sẽ tăng tốc về đích.
Bên cạnh đó, các cơ quan liên quan cần tiếp tục hoàn thiện, trình các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật liên quan, đặc biệt là cơ chế, chính sách bảo đảm gỗ hợp pháp… Đặc biệt, các doanh nghiệp gỗ phải nâng cao năng lực cạnh tranh với 5 trụ cột chính cần hướng tới. Đó là, các giải pháp về kỹ thuật và công nghệ trong sản xuất; sản xuất phải giảm phát thải; các giải pháp về quản trị, trong đó ưu tiên chuyển đổi số; đẩy mạnh xúc tiến thương mại và xây dựng bộ tiêu chuẩn giám sát nội bộ trong doanh nghiệp.
Liên kết trồng rừng gỗ lớn chủ động xuất khẩu bền vững
Các chuyên gia kinh tế nhận định, để duy trì và mở rộng các thị trường xuất khẩu này, việc phát triển nguồn gỗ nguyên liệu từ các diện tích rừng được cấp chứng chỉ là điều kiện tiên quyết.
Tuy nhiên, chi phí xây dựng phương án quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng là khá cao, đặc biệt đối với các hộ nông dân có diện tích manh mún, ở vùng sâu, vùng xa. Hiện, cả nước có hơn 1 triệu chủ rừng, quản lý trên 45,5% diện tích rừng trồng sản xuất (tương đương 1,82 triệu ha), là những hộ có nguồn lực tài chính hạn chế, khó có thể tự mình huy động được nguồn vốn trong việc thực hiện cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững.
Theo thống kê của Cục Lâm nghiệp, đến nay, cả nước đã trồng và chuyển hoá được 445.480ha rừng trồng gỗ lớn. Trong đó, các tỉnh vùng Bắc Trung bộ đạt 234.847 ha, cao nhất trên toàn quốc, chiếm 52,7 %. Khu vực này cũng có gần 105 nghìn ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, chiếm gần 20,4% diện tích rừng được cấp chứng chỉ trong cả nước.
Vùng Bắc Trung bộ cũng đứng thứ 2 trong cả nước về thu hút doanh nghiệp hợp tác, liên kết với chủ rừng đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, chỉ sau vùng Đông Bắc, nhưng sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của vùng.
Cụ thể, diện tích rừng gỗ lớn có chứng chỉ quản lý rừng bền vững do sự hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp và chủ rừng chỉ chiếm trên 3,5% diện tích rừng trồng của cả vùng, 44% diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững của cả vùng.
Việc phát triển hợp tác, liên kết, đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững tại vùng Bắc Trung bộ vẫn còn những khó khăn, tồn tại nhất định. Theo đó, chưa có nhiều doanh nghiệp quan tâm hợp tác, liên kết với chủ rừng đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng nhận quản lý rừng bền vững và bao tiêu sản phẩm. Có thời điểm, giá bán gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững chênh không nhiều so với gỗ không có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, không tương xứng với chi phí bỏ ra để làm chứng chỉ quản lý rừng bền vững;...
Theo ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp khẳng định, Bộ Nông nghiệp và PTNT và các bộ, ngành địa phương sẽ tiếp tục lắng nghe ý kiến của các hiệp hội, doanh nghiệp để tham mưu, sửa đổi các quy định đối với ngành chế biến và xuất khẩu gỗ.
Sản lượng gỗ rừng trồng trong nước hiện đã đảm bảo được khoảng 75% cho nhu cầu sản xuất trong nước và sản lượng gỗ nhập khẩu đang giảm dần trong thời gian qua. Tuy nhiên, việc trồng rừng gỗ lớn, đủ chất lượng để phục vụ cho ngành sản xuất nội thất trong nước vẫn còn thiếu, trong đó, thiếu cả về số lượng cũng như sự liên kết giữa vùng trồng, vùng nguyên liệu đến các cơ sở sản xuất, đến những giải pháp để đảm bảo sinh kế cho người dân thực hiện trồng rừng gỗ lớn (vốn có thời gian chăm sóc từ 10 năm trở lên tính từ lúc trồng đến thười điểm khai thác).
Tăng cường hợp tác liên kết trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững.
Theo ông Triệu Văn Lực, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp nhận định, trong bối cảnh thế giới hiện nay, việc hợp tác và liên kết đầu tư phát triển trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững là xu hướng tất yếu và rất cần thiết đối với ngành công nghiệp chế biến gỗ.
Để thu hút hợp tác liên kết trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, các chuyên gia khuyến nghị, các địa phương cần rà soát, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, đồng thời triển khai thực hiện hiệu quả các chính hỗ trợ tạo điều kiện, thu hút doanh nghiệp, chủ rừng tham gia vào hợp tác, liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững.
Bên cạnh đó, kịp thời đánh giá, tổng kết các mô hình hợp tác, liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững hoạt động có hiệu quả, làm cơ sở để nhân rộng. Đẩy mạnh các hoạt động tổ chức hội nghị, hội chợ triển lãm... nhằm quảng bá sản phẩm và xúc tiến các thành phần kinh tế tham gia hợp tác, liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững gắn với chế biến và thị trường xuất khẩu.
Nhằm đạt và vượt mục tiêu xuất khẩu gỗ và lâm sản năm 2024 là 15,2 tỷ USD, trong đó gỗ và sản phẩm gỗ trên 14,2 tỷ USD, tăng khoảng 6 % so với năm 2023, ông Triệu Văn Lực cho biết, hiện toàn ngành lâm nghiệp đang dồn lực khắc phục hậu quả do cơn bão số 3 gây ra, hỗ trợ kịp thời các đơn vị, doanh nghiệp sản xuất lâm nghiệp, chế biến xuất khẩu gỗ và lâm sản bị thiệt hại nhanh chóng ổn định lại sản xuất. Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách hiện hành, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào việc phát triển rừng trồng, chế biến gỗ và lâm sản.
Đồng thời, ông Triệu Văn Lực cũng đề xuất cần tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực để chủ động, ứng phó, giải quyết các vụ việc cạnh tranh thương mại, tổ chức theo dõi chặt chẽ, nắm bắt kịp thời những khó khăn, bất cập do cơ chế, chính sách để tháo gỡ cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ và lâm sản.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất nghèo huyện Mường Lát (Thanh Hóa), từ chưa hiểu sản phẩm OCOP là gì, nhưng bằng nghị lực, sự táo bạo trong cách nghĩ, cách làm và được sự ủng hộ của chính quyền, chị Lương Thị Nồng ở xã Quang Chiểu đã đưa nếp Cay Nọi trở thành sản phẩm OCOP đầu tiên của huyện (năm 2021) và phát triển bền vững.