Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Chủ nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024  
Thứ bảy, ngày 23 tháng 1 năm 2016 | 6:50

Phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững theo 3 trụ cột

Báo KTNT xin giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Bộ trưởng Cao Đức Phát:

TÁI CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP GẮN VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI, NÂNG CAO NHANH HƠN ĐỜI SỐNG CỦA NÔNG DÂN   

Ban cán sự Đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Đảng ta xác định Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn trên cơ sở công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; trong đó, phát triển sản xuất nông nghiệp là then chốt, xây dựng nông thôn mới là căn bản, nông dân giữ vai trò chủ thể. 

Thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, trong 5 năm qua, ngành nông nghiệp đã cụ thể hóa Nghị quyết thành nhiều Chương trình, Đề án, Kế hoạch và tập trung tổ chức thực hiện; trọng tâm là tổ chức thực hiện Đề án “Tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”  và Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới  tại các Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013, Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Với sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, các cơ quan Trung ương và địa phương đã sát cánh cùng với nhân dân, toàn ngành nông nghiệp triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:

1. Tổ chức quán triệt, thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức tới tất cả các cấp, ngành và các địa phương về mục đích, ý nghĩa, phương châm, nội dung và cơ chế chính sách của  hai chủ trương này. Các Bộ, ngành đã tham mưu trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản, hướng dẫn thực hiện. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo xây dựng và phê duyệt 6 Đề án tái cơ cấu các lĩnh vực chuyên ngành và 6 kế hoạch chuyên đề thực hiện các giải pháp cụ thể. Ở các địa phương, chủ trương xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp đã được thảo luận, phổ biến dưới nhiều hình thức và nhận được sự đồng thuận, nhất trí cao. Trong Báo cáo Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp của các địa phương đều đã xác định rõ các giải pháp đẩy mạnh thực hiện trong giai đoạn tới. 

Ở Trung ương, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới và Ban chỉ đạo liên ngành tái cơ cấu nông nghiệp do Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban với sự tham gia của các Ban, Bộ, ngành, đoàn thể. Các địa phương đã thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới đến cấp xã và thành lập Ban chỉ đạo tái cơ cấu nông nghiệp ở cấp Tỉnh, một số nơi có Ban chỉ đạo cấp Huyện.

2. Tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch và cơ cấu sản xuất trên cơ sở phát huy lợi thế địa phương, nhu cầu thị trường.

Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt và chỉ đạo thực hiện 30 quy hoạch làm căn cứ để đầu tư phát triển các sản phẩm chủ lực là lợi thế của cả nước và các vùng.

Nhiều địa phương đã chỉ đạo rà soát quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, làm rõ các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực là lợi thế để tập trung chỉ đạo hình thành các vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn.

Về xây dựng nông thôn  mới, đến nay cả nước đã có 98,7% số xã đạt tiêu chí về quy hoạch xây dựng nông thôn mới.

3. Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách

 Bộ Nông nghiệp và PTNT đã xây dựng và trình Quốc hội ban hành 02 Luật chuyên ngành; Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 6 Nghị định, 2 Nghị quyết, 10 Quyết định và 1 Chỉ thị chỉ đạo và hỗ trợ, tạo thuận lợi cho thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, trong đó có các chính sách quan trọng như chính sách về quản lý đất lúa, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hỗ trợ phát triển thủy sản, hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ, bảo vệ và phát triển rừng gắn với xóa đói giảm nghèo,...Các Bộ, ngành liên quan cũng đã ban hành các chính sách hỗ trợ  về thương mại, tín dụng, thuế, phí liên quan khác.

Về cơ chế, chính sách cho xây dựng nông thôn mới, sau 5 năm thực hiện, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 18 Quyết định, 03 Chỉ thị và văn bản chỉ đạo. Các Bộ, ngành đã ban hành 35 Quyết định, 34 Thông tư và nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo khác; đồng thời chủ động rà soát và ban hành các quy định, văn bản hướng dẫn chuyên ngành, điều chỉnh cho phù hợp với thực tế.

Nhiều tỉnh, thành phố đã chủ động ban hành chính sách đặc thù nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ, nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình trên địa bàn.

4. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ; đã tập trung sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành, các nông, lâm trường quốc doanh; chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp; phát triển hàng nghìn mô hình hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ. Đã có gần 600 nghìn ha lúa được sản xuất theo các hình thức hợp tác, liên kết, trong đó vùng ĐBSCL có 450 nghìn ha; đồng thời đã xây dựng nhiều mô hình liên kết trong chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp.

5. Đổi mới công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiên tiến, chú trọng nghiên cứu chọn tạo các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và giá trị thương mại cao để phục vụ cho sản xuất; nghiên cứu phát triển các quy trình sản xuất nông lâm thủy sản sử dụng hiệu quả vật tư để đạt năng suất cao, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm phát thải khí nhà kính; phát triển ứng dụng công nghệ cao;...Nhiều mô hình sản xuất ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến đã đem lại thu nhập hàng trăm triệu đồng/ha/năm trở lên. Xuất hiện những gương điển hình doanh nghiệp, nông dân làm giỏi, ứng dụng công nghệ cao có doanh thu đạt trên 1,0 tỷ đồng/ha/năm. Chương trình khoa học công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới đã được hình thành và đang được tích cực tổ chức thực hiện.

6. Thực hiện nghiêm túc chủ trương tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đầu tư công; thu hút nguồn lực xã hội

 Trong quản lý đầu tư công, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã quyết liệt chỉ đạo khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và nợ đọng xây dựng cơ bản; từng bước điều chỉnh vốn đầu tư công cho các công trình phục vụ tái cơ cấu, ưu tiên cho các lĩnh vực có khả năng cạnh tranh và đem lại giá trị gia tăng cao, nhất là thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản; tăng cường năng lực nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ, quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, dảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và thực hiện các dịch vụ công chuyên ngành. 

Chương trình xây dựng nông thôn mới đã nhận được sự đồng thuận cao, sự tham gia, đóng góp nguồn lực của cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Trong 5 năm qua, đã huy động được 851.380 tỷ đồng đầu tư cho Chương trình. Trong đó, ngân sách nhà nước chiếm 31,34%, tín dụng 51%, doanh nghiệp tham gia 4,9%, người dân và cộng đồng đóng góp 12,62%.

 7. Công tác quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT tập trung chỉ đạo, chọn là nhiệm vụ trọng tâm của ngành. Đã chú trọng xây dựng bộ máy thống nhất quản lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm từ Trung ương đến địa phương; hoàn thiện hệ thống pháp lý; tăng cường tổ chức kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định của luật pháp về quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn vệ sinh thực phẩm; đồng thời đẩy mạnh công tác phổ biến, hướng dẫn nông dân sản xuất theo các quy trình an toàn, tổ chức các chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn.

8. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý ngành

Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức, sắp xếp các đơn vị trực thuộc theo Nghị định của Chính phủ và các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Hiện đang tiếp tục hoàn thiện bộ máy các cơ quan chuyên môn của ngành thuộc cấp tỉnh, huyện thống nhất trên toàn quốc.

Những nỗ lực to lớn đó đã đem lại nhiều kết quả tích cực:  

- Trong lĩnh vực trồng trọt, đã có sự điều chỉnh về cơ cấu cây trồng theo hướng tăng diện tích những cây có thị trường thuận lợi và giá trị cao. Đồng thời, đã chú trọng hơn tới nâng cao chất lượng và giá trị, hiệu quả sản xuất. Đối với cây lúa, diện tích sử dụng các giống chất lượng cao đã chiếm khoảng 40%, có nơi đạt 70-80%. Giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất trồng trọt đã tăng từ 54,6 triệu đồng năm 2010 lên 83 triệu đồng năm 2015. Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân đạt 3,13%/năm.

- Sản xuất chăn nuôi đã chuyển mạnh theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng đàn vật nuôi. Nhiều tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới về giống, thức ăn, quản lý môi trường... đã được chuyển giao vào sản xuất. So với năm 2010, sản lượng thịt các loại tăng 18,9%; sữa tươi tăng 2 lần; trứng gia cầm tăng 50,5%; giá trị sản lượng tăng bình quân 3,4%/năm

- Trong lĩnh vực thủy sản, đã cơ cấu lại theo hướng đẩy mạnh khai thác xa bờ, tập trung vào các đối tượng có giá trị kinh tế cao (cá ngừ, cá thu, tôm, mực,…); đồng thời tăng nhanh sản lượng các đối tượng nuôi chủ lực (tôm, cá tra, nhuyễn thể) có giá trị cao và có thị trường tiêu thụ. Tổng sản lượng thuỷ sản năm 2015 tăng 27,3% so với năm 2010. Tốc độ tăng giá trị sản xuất thủy sản đạt bình quân 4,9%/năm. Giá trị sản phẩm tăng từ 103,8 triệu đồng/ha mặt nước nuôi trồng lên 183 triệu đồng/ha năm 2015. 

- Sản xuất lâm nghiệp đã có sự chuyển biến mạnh trên nhiều phương diện. Rừng được bảo vệ và phát triển tốt hơn. Trong 5 năm qua diện tích rừng trồng tập trung đạt 1,055  triệu ha, bình quân 211 nghìn ha/năm; tỷ lệ che phủ rừng tăng bình quân khoảng 0,3%/năm, nâng tỷ lệ bảo đảm nguyên liệu gỗ trong nước cho chế biến xuất khẩu đạt 50% vào năm 2015. Giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng mạnh, đạt bình quân 6,67%/năm.

- Tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành (bao gồm cả nông, lâm, diêm  nghiệp, thủy sản và các dịch vụ) đã được duy trì ở mức khá cao, đạt bình quân 3,1%/năm, vượt mục tiêu (2,6% -3,0%/năm). Xuất khẩu tăng nhanh cả về khối lượng và kim ngạch. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2011-2015 đạt 141 tỷ USD, tăng bình quân tăng 9%/năm. Nhiều mặt hàng có vị thế cao trên thị trường thế giới, đã có 10 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩt từ 1,0 tỷ USD trở lên.

- Chương trình xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sôi động trên toàn quốc. Đến hết năm 2015, cả nước có 1.526 xã (chiếm 17% số xã trên cả nước) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; số tiêu chí bình quân/(trên) xã là 12,9 tiêu chí (tăng 8,2 tiêu chí so với 2010); có 15 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; thu nhập bình quân đầu người vùng nông thôn đạt 24,4 triệu đồng/năm  (tăng khoảng 1,9 lần so với năm 2010), góp phần quan trọng xóa đói, giảm nghèo và nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn. 

Tổng thể cả giai đoạn 2011-2015, trong bối cảnh chung có nhiều khó khăn, thách thức, Ngành nông nghiệp đã nỗ lực phấn đấu và đạt được mục tiêu “Duy trì tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và tăng cường xuất khẩu; nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn, bảo vệ  và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững”.

Tuy  vậy, bên cạnh những kết quả đạt được trên, việc triển khai thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trong thời gian qua đang bộc lộ những hạn chế, yếu kém, đó là: 

- Quá trình phát triển sản xuất những năm gần đây kém bền vững, dễ bị tổn thương trước tác động của thiên tai, dịch bệnh và diễn biến bất lợi của thị trường trong và ngoài nước;

- Chất lượng, khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất của nhiều loại nông sản còn thấp, hiệu quả chưa cao;

- Đổi mới tổ chức sản xuất còn nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa lớn; các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất phát triển chậm, hiệu quả chưa ổn định; kinh tế hộ nhỏ lẻ, ruộng đất sản xuất manh mún ngày càng bộc lộ những hạn chế, yếu kém và cản trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt thấp hơn mục tiêu đề ra. Hết năm 2015, cả nước có khoảng 17% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (mục tiêu của Chương trình là 20%). Mức độ thực hiện ở các địa phương, vùng miền chưa đồng đều.Thu nhập và đời sống của nông dân mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với thu nhập của người dân ở đô thị; nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn cao; môi trường nhiều vùng nông thôn bị suy giảm.

Những hạn chế này có nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ nhiều yếu tố có tính chất cơ cấu của ngành chưa được khắc phục. Trong khi đó, cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nhất là trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang hội nhập ngày càng sâu, rộng với kinh tế thế giới; biến đổi khí hậu tác động ngày càng rõ nét.

Trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5 năm tới, dự thảo Văn kiện của Đại hội đã xác định Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế” trong đó Cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới” là một trong những nhiệm vụ quan trọng cần tập trung thực hiện.

Mục tiêu chính của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn trong những năm tới là phát triển bền vững theo 3 trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường, cụ thể là: (1) Thực hiện tái cơ cấu, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, giá trị gia tăng và hiệu quả cao; (2) Xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống của dân cư nông thôn; (3) Phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên và môi trường bền vững.

 Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu trên, thời gian tới rất cần sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, Chính quyền và sự tham gia tích cực của tất cả các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến địa phương để giải quyết một cách đồng bộ, tổng thể các nhiệm vụ, giải pháp; trong đó, cần chú trọng thực hiện tốt các nhóm giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức về sự cần thiết, tất yếu và tầm quan trọng của thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới đến các cấp, ngành, địa phương và người dân; thay đổi nhận thức về sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu.

Thứ hai, tiếp tục tập trung nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; thực hiện các mục tiêu tại Nghị quyết 26/NQ-TW của Trung ương 7, Khóa X và Kết luận số 97-KL/TW ngày 9/5/2014 của Bộ Chính trị, trước hết tạo điều kiện để nông dân và doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi hơn về đất đai, nguồn vốn và thị trường để mở rộng sản xuất hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, trọng tâm là phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp và các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu; đẩy mạnh đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp theo hướng chú trọng hơn tới việc tổ chức nông dân sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn, chất lượng đảm bảo gắn với chế biến và tiêu thụ; thực hiện chuyển mạnh lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn.

Thứ , tăng cường nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, bao gồm cả công nghệ cao trong tất cả các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của ngành; đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả của ngành; đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nông dân, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH của ngành.

Thứ năm, tiếp tục huy động các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tăng cường năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; cơ bản nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn xã (giao thông, điện, nước sạch, trường học các cấp, trạm y tế xã , nhà văn hóa và khu thể thao thôn), bao gồm cả các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội theo hướng CNH, HĐH và tăng hưởng thụ cho cư dân nông thôn.

Thứ  sáu, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý ngành từ trung ương đến địa phương. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các Ban chỉ đạo và bộ máy giúp việc các cấp ở Trung ương và các địa phương, ra sức tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về tái cơ cấu và xây dựng nông thôn mới.

Thực hiện nghiêm túc Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn lực. 

  Toàn ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tin tưởng rằng, với sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp, hỗ trợ hiệu quả của các Bộ, ngành, địa phương, sự nỗ lực phấn đấu của bà con nông dân và cộng đồng doanh nghiệp, chắc chắn sẽ thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ được Đại hội Đảng đề ra trong nhiệm kỳ 2016-2020, trọng tâm là cơ cấu lại nền nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới./.

TÁI CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG TIẾP CẬN ĐA NGÀNH GẮN VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG

Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng

Kính thưa Đoàn Chủ tịch!

Kính thưa Đại hội!

Được sự cho phép của Đoàn Chủ tịch, thay mặt Đoàn đại biểu của tỉnh Lâm Đồng, tôi xin trình bày tham luận với nội dung sau:

Trước hết, về cơ bản Đoàn đại biểu của Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng thống nhất với nội dung Văn kiện đã trình bày tại Đại hội; đồng tình, nhất trí với nhận định, đánh giá về những thành quả đã đạt được, những hạn chế khuyết điểm trong 5 năm qua và mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ trong giai đoạn 2016-2020. Nhất là những nội dung về tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu nông nghiệp nói riêng đã nêu trong dự thảo của các Văn kiện. 

Để làm rõ thêm những thành quả của quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; chúng tôi xin trình bày một số nội dung về thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành gắn với xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng như sau:

Lâm Đồng là tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên; có diện tích tự nhiên 9.773km2, trong đó có khoảng 316.000 ha đất sản xuất nông nghiệp; với 12 đơn vị hành chính cấp huyện và 147 đơn vị hành chính cấp xã (117 xã, 18 phường và 12 thị trấn); dân số trên 1,27 triệu người, với 43 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 24,1% (riêng dân tộc thiểu số gốc Tây nguyên chiếm khoảng 17%). Điều kiện tự nhiên của Lâm Đồng thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp và dịch vụ du lịch; tốc độ tăng trưởng GRDP (theo giá SS 1994) giai đoạn 2011 - 2015 đạt 14,1%/năm, riêng ngành nông nghiệp đạt mức tăng trưởng bình quân 8,4%/năm; đến năm 2015, trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Lâm Đồng: ngành nông, lâm, thủy sản chiếm 36,0%; ngành công nghiệp, xây dựng chiếm 28,0%; ngành dịch vụ chiếm 36,0%; thu nhập bình quân đầu người đạt 45,5 triệu đồng.

Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và chủ trương chung của Đảng và Nhà nước về tái cơ cấu nền kinh tế, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương rà soát, đánh giá, phân tích những tiềm năng, thế mạnh của từng vùng sinh thái, xác định những khó khăn, hạn chế,... để xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển toàn diện, áp dụng đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản; đẩy mạnh cơ giới hoá, tự động hóa; mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế; khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; hạn chế các tác động không tốt đến môi trường sinh thái; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu để phát triển nông nghiệp bền vững.

Được sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, cùng với sự cố gắng, nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, ngành nông nghiệp Lâm Đồng đã tập trung xây dựng những vùng chuyên canh có quy mô sản xuất lớn, phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm; trình độ canh tác đã có sự phát triển nhanh; cơ cấu cây trồng dịch chuyển đúng định hướng; toàn tỉnh hiện có 152.000 ha cà phê, 55.000 ha rau, 23.500 ha chè, 7.600 ha hoa; diện tích ứng dụng công nghệ cao đạt trên 15% diện tích canh tác toàn tỉnh, chất lượng nông sản ngày càng được cải thiện, một số sản phẩm đạt tiêu chuẩn ngang với một số nước tiên tiến, tạo được uy tín đối với người tiêu dùng trong nước, một số sản phẩm đã xuất khẩu ra thị trường thế giới; nhiều nông sản của Lâm Đồng đã xây dựng được thương hiệu như Hoa Đà Lạt, Rau Đà Lạt, Cà phê Di Linh, Chè B’Lao, Lúa gạo Cát Tiên, cà phê arabica Cầu Đất....

 Trong năm 2015, giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân đạt 140 triệu đồng/ha/năm (7.000USD/ha/năm), trong đó diện tích sản xuất NNCNC có giá trị sản xuất cao gấp hơn 2 lần giá trị sản xuất bình quân toàn tỉnh, điển hình như: rau chất lượng cao đạt 450 - 500 triệu đồng/ha/năm, hoa chất lượng cao đạt 800 - 1.200 triệu đồng/ha/năm, nhiều mô hình đạt 3 tỷ đồng/ha/năm, đàn bò sữa trên 17.000 con; có hàng trăm giống rau, hoa, cây công nghiệp có chất lượng tốt được nhập nội, nhân giống thông qua 60 cơ sở nuôi cấy mô và trên 200 vườn ươm với sản lượng hơn 02 tỷ cây giống. Điểm nổi bật trong sản xuất nông nghiệp tại Lâm Đồng là ở nhiều nơi bà con đồng bào dân tộc thiểu số đã biết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất hàng hoá.

Tỉnh Lâm Đồng có 01 khu nông nghiệp công nghệ cao được Thủ tướng Chính phủ đưa vào quy hoạch của cả nước, 08 doanh nghiệp được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là doanh nghiệp NNCNC (chiếm 40% cả nước).

Sản xuất lâm nghiệp phát triển theo hướng tăng cường quản lý bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên và trồng rừng kinh tế; đẩy mạnh thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, mật độ che phủ rừng đạt 52,5%. Trong tổng số 409.347 ha diện tích rừng giao khoán quản lý bảo vệ hàng năm thì có trên 76% diện tích giao khoán cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; thông qua Chương trình xây dựng nông thôn mới đã huy động được 33.581 tỷ đồng để đầu tư phát triển sản xuất, nâng cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu về giao thông, điện, nước sinh hoạt; phát triển mạng lưới y tế cơ sở, giáo dục, các thiết chế văn hóa tại vùng nông thôn, đến nay khoảng 95% số xã đạt tiêu chí thu nhập; đến năm 2015, tỉnh Lâm Đồng có huyện Đơn Dương và 36,75% số xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, là cơ sở để Lâm Đồng hoàn thành nông thôn mới vào năm 2020.

Chương trình giảm nghèo bền vững được triển khai đồng bộ, hiệu quả thông qua các chương trình, dự án đầu tư phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho những người trong độ tuổi lao động, các hộ nghèo đăng ký phương án thoát nghèo để được nhà nước hỗ trợ, cộng đồng xã hội giúp đỡ thoát nghèo bền vững;... nhờ đó, đến nay tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn dưới 2%, tỷ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số còn dưới 6%.

Từ cuối năm 2013, tỉnh Lâm Đồng đã phối hợp với Cơ quan hợp tác quốc tế của Nhật Bản (JICA) và Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam xây dựng dự án phát triển nông nghiệp theo cách tiếp cận đa ngành và cải thiện môi trường trường đầu tư với 04 mục tiêu và 08 bước chiến lược để xây dựng nông nghiệp Lâm Đồng thành vùng nông nghiệp giá trị cao hàng đầu Đông Nam Á. Đồng thời, tiếp tục hợp tác và thu hút các nhà đầu tư ở các nước có nền nông nghiệp hiện đại (Nhật Bản, Hà Lan, Bỉ, Hàn Quốc, Isarel...) để huy động các nguồn lực phát triển ngành nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao.

Kính thưa Đại hội!

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình phát triển của ngành nông nghiệp Lâm Đồng vẫn còn một số khó khăn, hạn chế sau đây:

- Địa hình tự nhiên bị chia cắt, diện tích canh tác manh mún, nhỏ lẻ; sự biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét, các hiện tượng thời tiết cực đoan, thiên tai xảy ra với tần suất nhiều hơn và cường độ mạnh hơn; nguy cơ xuất hiện các loại dịch bệnh mới khó kiểm soát.

- Nông sản Việt Nam nói chung và của Lâm Đồng nói riêng phải đối mặt với những thách thức về năng lực cạnh tranh khi gia nhập thị trường thế giới và thực thi hiệp định thương mại quốc tế WTO, cộng đồng kinh tế ASEAN và Hiệp định kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP,...

- Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chưa cân đối, tỷ trọng ngành chăn nuôi còn thấp, chưa tương xứng tiềm năng (15%), dịch vụ phục vụ sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền nông nghiệp hiện đại; diện tích canh tác giá trị dưới 50 triệu/ha/năm chiếm tỷ lệ còn cao (31,7%), nhiều vật nuôi, cây trồng năng suất chưa cao, chưa phát huy hết lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiện, khí hậu,...

- Công tác quản lý nhà nước về chất lượng vật tư nông nghiệp, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm còn hạn chế và khó khăn; chất lượng dịch vụ công chưa theo kịp yêu cầu; một số chủ trương, chính sách trong nông nghiệp triển khai chậm, giải pháp chưa sát với thực tế, tính khả thi không cao.

- Các hình thức sản xuất phát triển chưa tương xứng với năng lực sản xuất, các mô hình liên kết mới hình thành ở giai đoạn đầu, sự gắn kết chưa thực sự chặt chẽ, kinh tế tập thể đã có bước phát triển nhưng chưa theo kịp tiến độ phát triển của lực lượng sản xuất; kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất tuy đã được đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất ngày càng phát triển.

- Công tác xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu tại các thị trường nước ngoài chưa hiệu quả nên nông sản của Lâm Đồng vẫn chưa được nhiều thị trường nước ngoài biết đến.

Kính thưa Đại hội!

Tỉnh Lâm Đồng nhận thức sâu sắc rằng: trong 5 năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP,... hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn giai đoạn trước, cần phải tận dụng thời cơ để nỗ lực vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập. Trong bối cảnh đó, tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ và giải pháp hết sức quan trọng và cần thiết với một số định hướng cơ bản như sau:

1. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể ngành nông nghiệp và các quy hoạch chuyên ngành theo hướng theo đa ngành gồm: tổ chức lại sản xuất, tập trung phát triển các cây trồng, vật nuôi có lợi thế cạnh tranh của địa phương để hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn, xây dựng trung tâm cung dịch vụ, thu mua, chế biến và xuất khẩu nông sản. Trước mắt, tập trung xây dựng Khu nông nghiệp công nghệ cao, Khu công nghiệp - nông nghiệp, Trung tâm sau thu hoạch và Trung tâm giao dịch hoa với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhật Bản và một số nước tiên tiến để hình thành những cụm sản xuất đạt chất lượng và tiêu chuẩn đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.

2. Gắn kết thực hiện Chương trình nông nghiệp công nghệ cao với Chương trình xây dựng nông thôn mới, Chương trình giảm nghèo bền vững hợp lý ở từng địa bàn nhằm phát triển toàn diện nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nâng cao vị thế và phát huy vai trò chủ thể của người nông dân; đạt mục tiêu nâng mức thu nhập của nông dân, nhất là nông dân sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cao hơn mức thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh.

3. Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại các vùng theo quy hoạch; thu hút các nguồn lực đầu tư thông qua các nguồn vốn ODA, vốn đầu tư FDI để đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; đồng thời  chủ động lựa chọn và áp dụng các công nghệ tiên tiến của thế giới theo phương thức đi tắt, đón đầu, đặc biệt là công nghệ giống, công nghệ tự động hóa, tin học hóa, công nghệ sau thu hoạch,...

4. Song song với việc đào tạo các chuyên gia đầu ngành, đào tạo các nhà quản trị giỏi của ngành nông nghiệp; cần tiếp tục thực hiện mô hình đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật, tay nghề cho nông dân theo hình thức vừa học vừa làm tại các nước có nền nông nghiệp tiên tiến; phát triển các mô hình hợp tác xã kiểu mới, liên kết sản xuất giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp, hình thành chuỗi sản xuất - tiêu thụ nông sản an toàn với sự tham gia của các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp lớn trong nước và người nông dân là chủ thể trực tiếp thực hiện.  

5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp nhất là quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, quản lý chất lượng nông sản, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đẩy mạnh việc áp dụng các quy chuẩn trong sản xuất như VietGAP, GlobalGAP, HACCP...nhằm nâng cao chất lượng nông sản đạt tiêu chuẩn, chất lượng là cơ sở để phát triển thị trường xuất khẩu.

Để thực hiện có hiệu quả những định hướng, giải pháp nêu trên, tỉnh Lâm Đồng xin kiến nghị với Trung ương Đảng, Chính phủ và các bộ, ngành một số nội dung sau:

1. Tiếp tục có những cơ chế, chính sách để đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; tạo điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học, nhà doanh nghiệp hợp tác, gắn bó hơn nữa với nông dân.

2.  Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, thủ tục và ưu đãi thuế trong việc nhập khẩu các giống rau, hoa mới và vật tư, trang thiết bị kỹ thuật nhà kính hiện đại, đồng bộ mà trong nước chưa sản xuất được để các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất.

3. Quan tâm bố trí vốn trung hạn để triển khai khu nông nghiệp công nghệ cao của các tỉnh, thành nói chung, tỉnh Lâm Đồng nói riêng theo Quyết định số 575/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

4. Có cơ chế và chiến lược hỗ trợ các địa phương, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản tại thị trường trong nước và quốc tế; đồng thời có chính sách bảo vệ hàng nông sản của Việt Nam trước sự cạnh tranh của một số nông sản nước ngoài.

Kính thưa Đại hội!

Với niềm tin tưởng sâu sắc vào thành công của Đại hội; tỉnh Lâm Đồng sẽ nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, đồng hành cùng ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cộng đồng doanh nghiệp và nông dân các tỉnh, thành bạn trong cả nước thực hiện có hiệu quả nội dung về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế mà trong đó cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.

Chúc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn!

 

 

KTNT
Ý kiến bạn đọc
  • Nâng cao nhận thức, con đường nâng tầm cho chè Việt

    Nâng cao nhận thức, con đường nâng tầm cho chè Việt

    Việt Nam được biết đến là một trong những quốc gia sản xuất chè lớn nhất thế giới, với những vùng chè trứ danh và hương vị đặc trưng. Tuy nhiên, phát triển chè hiện nay chưa tương xứng với tiềm năng và giá trị mang lại chưa cao.

  • Thanh Hóa thu ngân sách đứng đầu khu vực Bắc Trung Bộ

    Thanh Hóa thu ngân sách đứng đầu khu vực Bắc Trung Bộ

    Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh tỉnh Thanh Hóa năm 2024, tại phiên họp thường kỳ tháng 11/2024, thu ngân sách Nhà nước tỉnh Thanh Hóa dự kiến đạt hơn 50 nghìn tỷ đồng, đứng đầu khu vực Bắc Trung Bộ.

  • Du lịch sinh thái ở Cà Mau: Tiềm năng và vận hội

    Du lịch sinh thái ở Cà Mau: Tiềm năng và vận hội

    Cà Mau được thiên nhiên ưu đãi với địa lý, thiên nhiên án ngữ vùng cực Nam của Tổ Quốc. Nơi đây tồn tại 3 hệ sinh thái ngập nước ngọt, lợ, mặn riêng biệt, tạo nên một môi trường phát triển kinh tế thuận lợi. Đối với du lịch, môi trường tự nhiên của tỉnh này đang là tiềm năng, vận hội mới cho ngành công nghiệp không khói phát triển.

Top