Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ sáu, ngày 19 tháng 4 năm 2024  
Thứ tư, ngày 2 tháng 11 năm 2016 | 10:8

Tái cơ cấu nông nghiệp chậm do đầu tư chưa thỏa đáng

Chiều nay (02/11), thảo luận về Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020; Kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2017, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường đã có những giải trình trước Quốc hội về tình hình ngành nông nghiệp nước ta.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường giải trình trước Quốc hội về tình hình ngành nông nghiệp nước ta hiện nay.

Theo Bộ trưởng: Thứ nhất là vấn đề tái cơ cấu nông nghiệp, 30 năm vừa qua nông nghiệp có những kết quả, thành tựu hết sức to lớn, chuyển nền nông nghiệp từ chỗ bao cấp tập trung sang nền nông nghiệp đất nước thiếu ăn mà sang một đất nước đủ sản xuất được lương thực và thực phẩm cho 92 triệu dân và giành được phần xuất khẩu hàng năm tới gần 30 tỷ đô. Đây là một cố gắng rất lớn.

Tuy nhiên, đúng thực tế là nền nông nghiệp hiện nay vẫn dựa trên quy mô hộ nhỏ lẻ, manh mún do đó năng suất lao động, năng suất kinh tế và đời sống thu nhập của bà con nông dân chúng ta vẫn rất khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng, Quốc hội Chính phủ đã có những nghị quyết và chủ trương, Chính phủ đã ban hành quyết dịnh, đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng phát triển hàng hóa tập trung và bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu và hội nhập.

Sau 3 năm thực hiện đề án tái cơ cấu có thể đánh giá được mấy vấn đề lớn. Thứ nhất, chuyển được nhận thức và nhận thức này không chỉ ở cấp trung ương mà hầu hết các tỉnh thành và cả nhân dân và doanh nghiệp đồng bộ vào công cuộc này. Hầu hết 63 tỉnh, thành đều vào cuộc. Ở các cấp độ khác nhau thì cấp địa phương đã có những thành công bước đầu khác nhau. Ví dụ, Đồng Tháp mô hình chuyển đổi xác định 5 đối tượng sản phẩm chủ lực cho đến bây giờ có thể khẳng định là thành công bước đầu. Hay xa như Hà Giang thì các anh đã xác định chủ lực là cây dược liệu, cây rau ôn đới và đặc biệt gắn giữa tái cơ cấu nông nghiệp với du lịch sinh thái và du lịch tiềm năng của Hà Giang.

Thứ hai là một số ngành hàng lớn đã hình thành và có những điểm căn cốt để thực hiện có thể hội nhập. Đơn cử, ngành chăn nuôi, đặc biệt chăn nuôi lợn thì hiện nay đã hoàn thiện bước cơ bản ban đầu. Về công đoạn giống tiếp cận công nghệ tiên tiến thế giới. Trong tổng số 30 triệu con lợn, 4 triệu lợn giống, chiếm tỷ lệ 15% thì hiện nay những dòng giống này toàn dòng giống nhập và tiên tiến trên thế giới. Hay sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm đã đạt tới mức 1 năm công suất tiềm năng là 20 triệu tấn và thực tế đang sản xuất là 15 triệu tấn kể cả giá thành, công nghệ và chúng ta hội nhập được.

Về ngành thủy sản, hai sản phẩm chủ lực là tôm nước lợ và cá tra, tất cả công đoạn từ giống, từ tổ chức sản xuất, chuỗi sản xuất có thể tiếp cận được với hội nhập, năm nay hai mặt hàng này xuất khẩu đều có thứ hạng trên thế giới. Hoặc ngành sữa, hiện, chúng ta có tốc độ tăng trưởng liên tục 2 con số trong 6, 7 năm nay, sản phẩm sữa Việt Nam đã xuất khẩu sang 40 nước trên thế giới, gần đây TH Truemilk đã thành lập một nhà máy kèm theo một trang trại rất lớn 100.000ha tại Nga.

Ở cấp doanh nghiệp đã có nhiều doanh nghiệp lớn tập trung đầu tư khu vực nông nghiệp, như Vingroup, Tabaco, Hòa Phát, Minh Phú, Vĩnh Hòa, những công ty lớn này đã tập trung hướng vào nông nghiệp. Tái cơ cấu bước đầu có sự thành công.

Tuy nhiên, có những bất cập sau 3 năm đánh giá lại.

Một là sức sản xuất lớn, song quy mô hàng hóa tập trung, công nghệ hiện đại, quản trị tốt mới chiếm tỷ lệ rất nhỏ, còn phổ biến vẫn sản xuất trên quy mô rộng, nhỏ lẻ, công nghệ không cao, do đó rất khó kiểm soát an toàn thực phẩm, sức cạnh tranh chưa được tốt.

Hai là chuỗi sản phẩm tạo ra trừ một số mặt hàng lớn có sản phẩm chế biến sâu, còn lại hầu hết là sản phẩm thô. Do đó, chuỗi giá trị chỗ này khá thấp, kể cả những mặt hàng xuất khẩu tỷ đô la hầu như thô là chính.

Ba là thị trường của thiếu ổn định, thậm chí tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Vì chất lượng, chuỗi chế biến và một số thị trường hiện nay tiêu thụ nông sản chính chưa phải thị trường chính ngạch mà là tiểu ngạch, do đó tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, kể cả về mặt thời tiết, thị trường và những động thái phi thị trường khác.

Bốn là nhân tố hạt nhân trong tổ chức sản xuất là doanh nghiệp, hợp tác xã thì chưa nhiều. Đến giờ phút này chúng ta chỉ có 4.000 doanh nghiệp, 12.000 hợp tác xã, 56.000 tổ hợp tác xã, 29.500 trang trại. Cho thấy nhân tố chủ chốt trong tổ chức sản xuất hàng hóa lớn còn ít.

Nguyên nhân của những yếu kém này trước tiên là do nhận thức tái cơ cấu. Mặc dù trên đánh giá tất cả 63 địa phương cùng trung ương quyết liệt, tuy nhiên, trở thành phổ biến chưa thì việc này chưa thành phổ biến. Nếu thành phổ biến có lẽ kết quả sẽ cao hơn.

Hai là chính sách ban hành nhiều nhưng có một số chính sách không đi vào cuộc sống và thiếu. Ví dụ có hai chính sách, một là 61 và hai là 210 để làm sao thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp thì hiện nay bản thân 210 rất nhiều bất cập mà Thủ tướng Chính phủ đang giao cho ngành cùng các bộ khác chỉnh sửa chỗ này để thu hút được nhiều doanh nghiệp vào.

Thứ ba, nguồn nhân lực đầu tư mặc dù có cố gắng nhưng 5 năm qua đầu tư cho khu vực nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị nói rõ 5 năm đầu tư cho nông nghiệp ít nhất gấp 2 lần. 5 năm vừa qua chúng ta đầu tư cho nông nghiệp mới được có 1,85 lần, đây cũng là nguyên nhân cho tái cơ cấu của chúng ta chưa thực sự thành công như chúng ta mong muốn.

Thứ tư, quản lý nhà nước về chuyên ngành có nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới kể cả từ ngành nông nghiệp cấp trung ương đến cấp địa phương, đây cũng là nguyên nhân góp phần làm cho mục tiêu chưa đạt như mong muốn.

Bộ trưởng nhấn mạnh, thời gian tới Bộ sẽ chú trọng những vấn đề:

Thứ nhất là xác định nhóm sản phẩm lợi thế quốc gia để tập trung dồn những giải pháp tổng hợp lại. Nhóm sản phẩm cấp quốc gia là nhóm có lợi thế, có quy mô và có giá trị lớn. Hiện nay ngành cùng các địa phương xác định khoảng 10 sản phẩm có giá trị xuất khẩu từ 1 tỷ đô la trở lên, trong đó như cá tra, tôm, rau quả, điều, cà phê, thịt lợn, trong nhóm này có khoảng 10 sản phẩm, chúng ta sẽ dồn lực vào, tất cả các giải pháp để tập trung cho nhóm sản phẩm quốc gia.

Thứ hai là nhóm sản phẩm có quy mô đặc thù của các tỉnh nhưng có giá trị lớn hàng trăm triệu đồng. Ví dụ như vải thiều Lục Ngạn, nhãn lồng Hưng Yên, xoài Cao Lãnh hoặc cam Cao Phong. 63 tỉnh, thành đều có một lợi thế riêng để xây dựng những ngành hàng chủ lực của tỉnh. Vừa qua Lục Ngạn, Bắc Giang đã tập trung riêng quả vải thu 5.000 tỷ. Nhánh thứ hai của trục sản phẩm sẽ dồn lực vào khu vực này.

Nhóm thứ ba là nhóm có quy mô địa phương, tức là rất đa dạng sinh học, 63 tỉnh thành đều có lợi thế riêng mà ở đây là cấp phổ biến của những sản phẩm liên quan đến bà con nông dân. Mô hình mỗi làng một sản phẩm ở Quảng Ninh, đến bây giờ tổng kết 3 năm đạt được 185 sản phẩm. Như vậy thành hàng hóa quy mô cấp địa phương, có những hàng hóa có thể xuất khẩu được. Như vậy ba trục nhóm sản phẩm này sẽ dồn lực vào cho rõ, và để cụ thể hóa từng nhóm sản phẩm.

Giải pháp thứ hai là tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn then chốt, tạo động lực cho sản xuất. Ở đây có mấy vấn đề mà nút lớn nhất hiện nay là về đất đai. Tất cả những doanh nghiệp, tất cả hợp tác xã, những nông dân thực thụ yêu cầu sản xuất hàng hóa lớn rất trông mong vào chỗ này. Thực tiễn chứng minh tất cả các tỉnh chúng tôi đi kiểm tra, giám sát thấy ở đâu nông dân tích tụ cỡ vài ba chục hecta cho đến hàng trăm hecta đều có thể sản xuất hàng hóa và hội nhập được.

Tại Hưng Yên có một anh sản xuất lúa 120ha đã xuất khẩu thẳng lúa sang Nhật Bản, áp dụng cơ khí hóa tất cả các công đoạn. Từ gieo mạ cho đến cấy, chăm sóc, quản trị và đóng gói bao tiêu. Hay một anh nông dân sản xuất chuối 120ha xuất thẳng sản phẩm đi Nhật Bản. Vấn đề này đặt ra đối với các doanh nghiệp càng nóng bỏng hơn. Do đó, nút thắt đầu tiên là vấn đề tích tụ ruộng đất. Theo luật năm 2013, Điều 129, 130 hiện nay giới hạn hạn điền. Đối với sản xuất những cây trồng ngắn ngày là 2ha đối với toàn bộ các vùng, trừ Đông Nam Bộ, Đông Nam Bộ là 3ha.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường kiến nghị: Nếu Quốc hội cho phép sửa Điều 129, không có hạn điền nữa thì vấn đề tích tụ sẽ đảm bảo được đến ngưỡng cho phép.

Thứ hai, chúng ta sợ người nông dân mất ruộng thì không có việc làm. Bây giờ đã đến lúc tất cả những mô hình này, 1ha người ta thuê từ 4 đến 6 công nhân, nông dân sẽ trở thành công nhân nông nghiệp và thu nhập từ 3 đến 5 triệu đồng từng vùng. Do đó, Quốc hội cũng nên bàn, tháo nút được điểm này chắc chắn sẽ góp một phần để tạo ra hàng hóa sản xuất nông nghiệp với quy mô nhất định mới hội nhập được.

Điểm nút thắt thứ hai là chính sách. Nên tập trung chỉnh sửa những chính sách. Có ba nhóm chính sách rất quan trọng hiện nay như sau:

Một, sửa nghị định để làm sao đưa được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Đó là một chùm chính sách thứ nhất. Chính Thủ tướng cũng đang giao cho các ngành tập trung chỗ này.

Thứ hai, chính sách đối với phát triển hợp tác xã Luật năm 2012 nói rõ, tuy nhiên đi vào cuộc sống chưa có nguồn lực nhất là đào tạo năng lực, ưu tiên một số chính sách, chỗ này phải tháo gỡ.

Thứ ba, những chính sách về những vùng dễ tổn thương, ví dụ cùng với hai chính sách đó phải có những chính sách về vùng sâu, vùng xa, để đảm bảo cho sản xuất và đời sống đồng đều không có sự chênh lệch và riêng chỗ chùm chính sách này nay mai những đối tượng sản xuất những sản phẩm kém lợi thế nhưng hết sức quan trọng, ví dụ, cây lúa dồn lại một số vùng nhất định phải có chính sách riêng.

Thứ tư, Quốc hội, phải đầu tư nguồn lực, tái cơ cấu nông nghiệp hết sức quan trọng, một vấn đề rất khó xác định kiên trì lâu dài, do vậy vốn trung hạn bố trí vừa rồi nhưng nên có một gói trực tiếp cho tái cơ cấu nông nghiệp và thay đổi phương thức đầu tư, đầu tư thẳng xuống 63 tỉnh thành để chủ động một là có nguồn lực Trung ương. Ngoài ra, huy động cơ chế PPP thì mới giải quyết được câu chuyện căn cốt về tái cơ cấu của địa phương được và góp phần cho tái cơ cấu chung.

Dương Thanh

 

 

KTNT
Ý kiến bạn đọc
Top