Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ năm, ngày 18 tháng 7 năm 2024  
Thứ hai, ngày 15 tháng 7 năm 2024 | 16:14

Hiệu quả từ mô hình thí điểm 1 triệu hecta lúa chất lượng cao

Mô hình thí điểm sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bước đầu cho năng suất cao hơn so với canh tác truyền thống, ước đạt từ 6,3 đến 6,5 tấn/hecta, lợi nhuận tăng thêm khi mang rơm ra khỏi đồng ruộng và điều quan trọng là giảm phát thải khí nhà kính theo cam kết.

Kết quả bước đầu

Để có cơ sở triển khai đại trà trên toàn vùng ĐBSCL, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phối hợp với các đơn vị, địa phương liên quan triển khai 5 mô hình thí điểm, có điều kiện đất khác nhau ở 5 địa phương trong vùng, bao gồm: Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp và Kiên Giang.

Để thực hiện đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao TP. Cần Thơ đã chọn HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Tiến Thuận tại huyện Vĩnh Thạnh làm thí điểm mô hình để nhân rộng. Tháng 4/2024, HTX Tiến Thuận chính thức khởi động mô hình thí điểm với với diện tích 50 hecta. Qua triển khai, mô hình đã mang lại những kết quả rõ rệt khi giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, tăng năng suất và giảm phát thải khí nhà kính.

Hợp tác xã Tiến Thuận thu hoạch lúa trong mô hình thí điểm lúa 1 triệu hecta ở ĐBSCL (Ảnh: Trung Chánh).

Toàn bộ sản lượng lúa được sản xuất ra từ mô hình thí điểm trong đề án 1 triệu hecta của hợp tác xã Tiến Thuận đã được Công ty cổ phần Hoàng Minh Nhật ký hợp đồng thu mua với mức giá 7.050 đồng/kg (lúa tươi, giao xuống ghe tại ruộng).

Ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho rằng, mô hình thí điểm có sự liên kết rất chặt chẽ giữa các doanh nghiệp đầu vào và các doanh nghiệp thu mua gạo cho nông dân, thực hiện đúng cam kết của hai bên. Đây là những yếu tố thành công của mô hình ban đầu mà ngành nông nghiệp thấy rằng có thể lan tỏa cho địa bàn TP.Cần Thơ và các tỉnh khác khi triển khai kế hoạch thực hiện đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao của địa phương.

Ông Nguyễn Cao Khải, Giám đốc hợp tác xã Tiến Thuận cho biết, ban đầu khi triển khai mô hình rất hồi hộp, nhưng kết quả mang lại ông và các thành viên rất hài lòng. Áp dụng quy trình sản xuất của đề án không chỉ giúp giảm chi phí đầu vào, mà còn góp phần bảo vệ môi trường, tăng hiệu quả kinh tế cho người nông dân khi chi phí đầu tư giảm, ít tốn công phun thuốc hơn xưa.

Ông Nguyễn Văn Hùng, Chuyên gia cao cấp của Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) cho biết, với vùng đất chọn thí điểm ở huyện Vĩnh Thạnh, TP. Cần Thơ có đặc điểm là đất phèn ở mức độ vừa phải, năng suất lúa bình quân nơi đây trong vụ hè thu khoảng 5,9 tấn/héc ta (lúa tươi). Áp dụng quy trình kỹ thuật của đề án 1 triệu hecta (áp dụng sạ hàng), nông dân giảm được 60 kg giống/hecta so với phương pháp sạ lan, tương đương tiết kiệm được 1,2 triệu đồng/hecta, trong khi lượng phân đạm giảm được 30 kg/hecta, tương đương 0,7 triệu đồng/hecta. Riêng chi phí đầu vào của giống và phân giảm được 1,9 triệu đồng/hecta.

Ông Hùng cho biết thêm, số lần phun thuốc bảo vệ thực vật là yếu tố không ảnh hưởng nhiều đến phát thải khí nhà kính, nhưng tác động đến sức khoẻ của người nông dân, chất lượng cây trồng và công lao động. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp sạ hàng giảm số lần phun thuốc so với sạ lan từ 2-3 lần (sạ lan 9 lần phun/vụ, trong khi sạ hàng 6-7 lần phun/vụ).

Về năng suất, mô hình thí điểm đề án 1 triệu héc ta cho năng suất lúa tươi (ẩm độ 30%) đạt từ 6,13-6,51 tấn/hecta (tuỳ áp dụng kỹ thuật sạ hàng không vùi phân, sạ hàng đều có vùi phân hoặc sạ hàng biên có vùi phân). Trong khi ruộng đối chứng năng suất 5,89 tấn/hecta, tức mô hình thí điểm cho năng suất cao hơn từ 0,24-0,62 tấn/hecta.

Đối với hiệu quả kinh tế, theo ông Hùng, do giảm chi phí đầu tư trong khi năng suất tăng nên nông dân tham gia mô hình tăng lợi nhuận từ 1,3-6,2 triệu đồng/hecta, tương đương lợi nhuận tăng thêm khoảng 50-280 đô la Mỹ/hecta. Đây là thông số của 1 vụ, nhưng có thể tin cậy do chúng tôi làm tất cả các nghiệm thức đều lặp lại và làm ở diện rộng, có minh chứng từ thực hành các công nghệ liên quan.

Trong khi đó, về phát thải khí nhà kính, áp dụng quy trình canh tác của đề án 1 triệu hecta, di chuyển rơm ra khỏi đồng ruộng cho kết quả lượng phát thải là 2 tấn Co2 tương đương (Co2-e)/hecta. Trong khi đó, đối với nông dân sản xuất theo phương pháp ngập liên tục kết hợp đốt rơm, thì phát thải khoảng 5 tấn Co2-e/hecta; sản xuất ngập liên tục kết hợp vùi rơm, lượng phát thải là 15 tấn Co2-e/hecta

Theo ông Hùng, nông dân trong hợp tác xã Tiến Thuận khi áp dụng quy trình canh tác của đề án 1 triệu héc ta, nhưng vùi rơm, thì lượng phát thải khoảng 8 tấn Co2-e/hecta. Từ kết quả trên cho thấy, áp dụng quy trình 1 triệu héc ta, chuyển rơm ra khỏi đồng ruộng giúp giảm được 13 tấn Co2-e/hecta so với áp dụng tưới ngập liên tục kết hợp vùi rơm rạ; giảm 3 tấn Co2-e/hecta so với áp dụng tưới ngập liên tục kết hợp đốt rơm và giảm 6 tấn Co2-e/hecta so với áp dụng quy trình tưới ngập khô xen kẽ, nhưng vùi rơm.

Phát biểu tại hội thảo sơ kết mô hình, ông Nguyễn Ngọc Hè, Phó Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ cho biết, thí điểm mô hình tại Cần Thơ ở vụ lúa hè thu đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của đề án về sử dụng giống xác nhận, được sử dụng 60kg/hecta; sạ hàng bằng máy kết hợp vùi phân; áp dụng quản lý nước ngập, khô xen kẽ; áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp; sử dụng máy gặt đập liên hợp để thu hoạch, thu gom rơm ra khỏi đồng ruộng.

Thu hoạch lúa trên cánh đồng của mô hình thí điểm 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở Cần Thơ.

Mô hình thí điểm đã giảm số lần bón phân xuống còn 2 lần/vụ; giảm 20% lượng phân bón vô cơ; giảm lượng nước tưới; giảm dịch bệnh trên lúa; giảm đổ ngã và hạn chế thất thoát sau thu hoạch. Kết quả từ mô hình chính là nền tảng để ngành Nông nghiệp Cần Thơ nhận rộng đến các vùng tham gia đề án 1 triệu hecta lúa đã cam kết với Bộ Nông nghiệp và PTNT.

Ông Cao Đức Phát, Chủ tịch Hội đồng quản trị Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế cho biết, mô hình thực hiện với hai mục tiêu: một là áp dụng các quy trình, kỹ thuật mới để giảm chi phí, tăng năng suất, tăng giá trị và tăng thu nhập cho người dân; hai là thông qua quy trình canh tác giảm thuốc bảo vệ thực vật, giảm giống gieo sạ và phân bón sẽ góp phần giảm ô nhiễm môi trường, giảm phát thải khí nhà kính để thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế.

Đây là một trong những mô hình tương đối toàn diện, cần tiếp tục lan tỏa, nhân rộng mô hình này ở các tỉnh, thành vùng ĐBSCL và cả Việt Nam nhằm thực hiện mong muốn của người trồng lúa có được cuộc sống tốt đẹp hơn, thu nhập cao hơn, môi trường trong sạch và đóng góp chung vào mục tiêu của thế giới về chống biến đổi khí hậu, ông Phát nhấn mạnh.

Gỡ khó về nguồn vốn thực hiện

Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, để đạt được các mục tiêu đề ra tại đề án, từ nay đến năm 2030 dự kiến cần khoảng 2,7 tỉ USD từ các nguồn vốn. Trong khi nguồn lực trong nước hiện chưa được bố trí và rất khó khăn, việc sớm huy động nguồn lực từ các tổ chức quốc tế vô cùng quan trọng và hết sức cấp bách. Bộ Nông nghiệp và PTNT đã chủ động làm việc với nhiều tổ chức quốc tế và đến nay có WB đã cam kết cho vay vốn và hỗ trợ kỹ thuật. Trên cơ sở cam kết của WB, Bộ cùng 12 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL và các bộ, ngành đã trực tiếp làm việc với WB để từng bước chuẩn bị các nội dung đề xuất dự án “Hỗ trợ hạ tầng và kỹ thuật cho lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng ĐBSCL” để cụ thể hóa đề án.

Theo ông Cao Thăng Bình, Chuyên gia Nông nghiệp, đây là thời điểm vàng để Việt Nam triển khai đề án, bởi nếu chậm hơn sẽ đánh mất cơ hội, còn nếu sớm hơn lại chưa phải là thời điểm thích hợp. Đây là thời điểm cần định vị lại thương hiệu lúa carbon thấp; quảng bá và định vị thương hiệu gạo cũng như chứng minh tính trách nhiệm của Việt Nam đối với sản xuất lúa gạo, nâng vị thế của Việt Nam trên thế giới. Việt Nam không chỉ sản xuất lúa gạo với sản lượng nhiều mà là một trong những nước đầu tiên trên thế giới trao đổi tín chỉ carbon.

Qua tính toán sơ bộ hiệu quả kinh tế mang lại rất cao. Nếu đầu tư cho cả chương trình khoảng 1 tỉ USD, hiệu quả sinh lợi có thể đạt đến 4 tỉ USD. Con số thực tế cần có sự tính toán kỹ của các chuyên gia, tuy nhiên chỉ tính riêng phần giảm phân bón, thuốc trừ sâu, giảm chi phí sản xuất khoảng 30% đã mang đến lợi ích rất lớn cho đất nước và người dân. Nếu quản lý được môi trường thiên nhiên ở ĐBSCL tốt hơn sẽ giúp giảm bớt gánh nặng về kinh tế - xã hội, đảm bảo sức khỏe cộng đồng.

Mô hình thí điểm cho hiệu quả kinh tế tăng, lượng phát thải giảm mạnh, (Ảnh: Trung Chánh).

Bên cạnh đó, còn giúp đóng góp vào việc thực hiện các cam kết của Chính phủ đối với thế giới khi đưa phát thải ròng về "0" vào năm 2050, gắn với mục tiêu giảm phát thải khí metan khoảng 30% vào cuối năm 2030. Nhìn chung về mặt xã hội, môi trường, trách nhiệm cộng đồng… đây là một trong những dự án đáng làm, nếu không làm sẽ vô cùng đáng tiếc. Vì vậy, WB mong muốn Bộ Kế hoạc và Đầu tư, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục hỗ trợ Bộ Nông nghiệp và PTNT và 12 tỉnh trong các vấn đề kỹ thuật, thủ tục huy động nguồn vốn vay ODA cho đề án này.

Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương, về mặt quan điểm chung Thủ tướng muốn thực hiện và cụ thể hóa ngay Đề án "Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030. Do đó, công tác nghiên cứu, đề xuất cần hết sức khẩn trương để đáp ứng yêu cầu của Thủ tướng. Thủ tục ODA thường phức tạp kéo dài, thời gian dự án nằm trong giai đoạn năm 2026-2030, các bộ ngành địa phương cần xác định mô hình dự án nào là hợp lý để đáp ứng yêu cầu của WB… Về cơ bản các dự án có cách thức triển khai, về mặt kỹ thuật có sự thống nhất, chỉ khác địa bàn thực hiện. Như vậy cần nghiên cứu thống nhất mô hình thực hiện, quy định của WB về quy mô dự án, rút ngắn các hồ sơ, thủ tục trình tự cần phải làm.

Theo đó, Bộ Nông nghiệp và PTNT có thể là cơ quan đại diện thực hiện các thủ tục này và cơ quan triển khai là các địa phương. Cần đề xuất mô hình dự án tốt nhất, phù hợp nhất, để báo cáo Thủ tướng. Nếu mô hình dự án chưa phù hợp với quy định pháp luật hiện hành có 2 khả năng để thực hiện. Một là báo cáo Quốc hội để thực hiện một mô hình đặc biệt và xin cơ chế đặc thù để làm những dự án đặc thù. Hai là đề xuất sửa Luật có liên quan nhưng phải chờ đến khi Luật sửa xong và có hiệu lực mới triển khai dự án. Do đó, các bộ, ngành đang cân nhắc theo khả năng xin ý kiến Quốc hội. Tuy nhiên, phải tập trung thiết kế được mô hình dự án thực sự hiệu quả để thuyết phục Quốc hội thông qua mô hình mới, chứng minh hiệu quả thực sự để mô hình có thể áp dụng rộng rãi cho nhiều dự án khác.

Mô hình canh tác lúa áp dụng dụng kỹ thuật "1 phải, 5 giảm" nhằm tăng hiệu quả và giảm phát thải được WB phối hợp với IRRI triển khai trên địa bàn quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ.

Liên quan tới tiếp cận nguồn vốn, mới đây tại buổi tiếp xúc cử tri ở TP. Cần Thơ, cư tri Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An cho biết, công ty cũng như nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lúa gạo đều gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn dài hạn để đầu tư phát triển bền vững chuỗi lúa gạo.

Theo ông Bình, đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh tại ĐBSCL đến năm 2030 có nêu 100% diện tích phải được liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp với hợp tác xã và nông dân, trong đó doanh nghiệp có vai trò chính trong khâu tiêu thụ. Tuy nhiên đến nay doanh nghiệp vẫn chưa thể tiếp cận được nguồn vốn vay dài hạn trong đề án. Đề nghị có giải pháp hỗ trợ, hướng dẫn cho doanh nghiệp sớm được tiếp cận nguồn vốn.

Về kiến nghị tiếp cận vốn vay cho doanh nghiệp tham gia đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, Chính phủ đã có Quyết định 1490 giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét ban hành chương trình tín dụng hỗ trợ liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao, phát thải thấp Đồng bằng sông Cửu Long.

Ngày 9/7/2024, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có tờ trình phê duyệt chương trình cho vay theo quyết định 1490. Sau khi xem xét từ các cơ quan tham mưu, Chính phủ sẽ phê duyệt chương trình này để tháo gỡ cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hướng dẫn địa phương, doanh nghiệp tham gia đề án tiếp cận các chương trình tín dụng liên quan.

Chúng ta cùng nhau thực hiện cho bằng được chương trình 1 triệu hecta lúa chất lượng cao phát thải thấp này, trong đó có sự tham gia của doanh nghiệp TP. Cần Thơ. Ngoài vốn ưu đãi còn có các kênh vốn khác, tôi đang chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn trong bối cảnh hiện nay, Thủ tướng khẳng định.

Nhân rộng kết quả thí điểm

Ông Trần Minh Hải, Phó hiệu trưởng Trường chính sách công và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho rằng, UBND các địa phương nên chủ trương xây dựng đề án phát triển kinh tế tập thể gắn với đề án 1 triệu héc ta để có kế hoạch hỗ trợ người dân phát triển số thành viên hợp tác xã cũng như tuyên truyền thay đổi nhận thức người nông dân.

Chúng ta có thể xây dựng mô hình hợp tác xã điểm để người nông dân coi đó làm theo, kết nối hỗ trợ người dân áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới như: cơ giới máy sạ cụm, máy bay không người lái hay kỹ thuật mới trong quá trình sản xuất.

Theo ông Hải, từ đề án kinh tế tập thể, các địa phương có thể hình thành Nghị quyết Hội đồng nhân dân theo định hướng đặc thù nhằm hỗ trợ các hợp tác xã đủ năng lực làm dịch vụ cho các doanh nghiệp như: cho mượn đất công để làm nhà kho, nhà máy sấy, sơ chế chế biến hoặc kho chứa vật tư. Chúng ta có thể kết nối hỗ trợ cho các hợp tác xã để làm việc với các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp kỹ thuật, tiêu thụ.

Để nhân rộng mô hình, ông Phan Văn Tâm, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần phân bón Bình Điền cho rằng, dù kết quả thuận lợi, nhưng còn rất nhiều việc phải làm. Trong đó, quan trọng nhất là cần truyền tải để người nông dân thấy, hiểu được kết quả của mô hình. Chương trình nào cũng vậy, nông dân không theo, không thực hiện, thì không thể triển khai được.

Ông Tâm dẫn chứng, muốn nông dân chuyển đổi tư duy gieo sạ từ 120 kg giống/hecta xuống còn 60 kg/hecta cũng phải truyền thông rất nhiều. Muốn triển khai được, thì phải truyền thông, đồng bộ dữ liệu này. Ngoài ra, cần phải có sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp, bởi có nông dân, có cơ quan chỉ đạo, nhưng thiếu sự đồng hành của các doanh nghiệp cũng không thể triển khai nhanh và bền vững được. Đó là những điều chúng ta cần vận động thực hiện, ông nhấn mạnh.

Tổng hợp từ nguồn: Thesaigontimes.vn; Doanhnghiepvn.vn; Baocantho.com.

Hoàng Văn (tổng hợp)
Ý kiến bạn đọc
  • Triển vọng từ những cây trồng mới trên vùng cao Sơn Tây

    Triển vọng từ những cây trồng mới trên vùng cao Sơn Tây

    Phát huy tiềm năng lợi thế về đất đai, khí hậu, thời gian qua huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi) không ngừng đẩy mạnh việc tìm kiếm, liên kết, phát triển các loại cây trồng mới, đem lại giá trị kinh tế cao. Trong đó, cây dứa MD2, cây sầu riêng được kỳ vọng sẽ là “cây thoát nghèo” mới của bà con nơi đây.

  • Những mô hình VAC mới hiệu quả ở Sơn La

    Những mô hình VAC mới hiệu quả ở Sơn La

    Hiện nay, nuôi vịt cổ xanh, trồng ớt Sweet Palermo, nuôi dúi… là những giống cây trồng, vật nuôi đặc sản đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân Sơn La.

  • Để VietGAP không chỉ dừng lại ở các mô hình

    Để VietGAP không chỉ dừng lại ở các mô hình

    Việc xây dựng các vùng sản xuất VietGAP không chỉ nâng cao giá trị nông sản, tạo thuận lợi trong khâu tiêu thụ mà còn gắn với trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong sản xuất bảo đảm an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc.

Top