Đó là chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung trong chuyến thăm và làm việc tại huyện Con Cuông về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội dịp cuối năm 2022.
Con Cuông là huyện có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa; diện tích tự nhiên lớn, độ che phủ rừng đạt 84,35%, đồng bào dân tộc chiếm tỷ lệ cao.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế do điều kiện tự nhiên, xã hội có những hạn chế nhất định, nhưng Con Cuông vẫn có những điểm sáng được Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An chỉ rõ, đó là: Giữ được ổn định an ninh biên giới, văn hóa - xã hội, môi trường sinh thái, ổn định nội bộ… để phát triển kinh tế.
Thác Khe Kèm, một thắng cảnh đẹp của huyện Con Cuông thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước.
Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung yêu cầu huyện khắc phục những hạn chế như: Kinh tế phát triển chậm, cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu… Để kiên trì với mục tiêu phát triển bền vững và xây dựng, phát triển Con Cuông thành đô thị sinh thái, huyện phải bám sát Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 27 để tập trung chỉ đạo. Phải rà soát lại các tiêu chí để thực hiện tốt “Đề án xây dựng huyện Con Cuông thành thị xã theo hướng đô thị sinh thái, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở vùng miền núi Tây Nghệ An”.
Trong định hướng phát triển kinh tế, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An đề nghị Con Cuông phát triển kinh tế xanh, ưu tiên cho nông - lâm nghiệp. Trong đó, nông nghiệp sinh thái phải phát huy được tiềm năng , lợi thế từ kinh tế rừng, kinh tế trang trại, trồng dược liệu dưới tán lá rừng, các vùng nguyên liệu… Gắn với đó là xây dựng nông thôn mới và phát triển các sản phẩm OCOP. Khai thác được tiềm năng kinh tế du lịch và có sự tham gia của người dân. Quan tâm để thu hút các nhà đầu tư có tiềm lực và tăng cường công tác truyền thông, quảng bá hình ảnh du lịch địa phương… Như vậy, mới thu hút được du khách trong và ngoài nước đến với Con Cuông, giúp huyện phát triển, đi lên từ ngành “công nghiệp không khói”…
Trong hơn 40 năm qua, kể từ khi thực hiện Khoán 100 (Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp), rồi Khoán 10 (Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.