Chương trình nước sạch ở Quảng Ngãi những năm gần đây đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt trên 93%.
Để đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt của người dân vùng nông thôn Quảng Ngãi, Trung tâm Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VSMTNT) tỉnh đã đầu tư, nâng cấp, sửa chữa và đưa vào vận hành hiệu quả các công trình cấp nước sinh hoạt. Nhờ đó, người dân các vùng thiếu nước sinh hoạt (SH), nước SH bị nhiễm mặn, phèn… trên địa bàn tỉnh đã có nước sạch về tận nhà.
Từ năm 2016-2020, Trung tâm đã tiếp nhận các công trình hư hỏng, không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả của các xã để nâng cấp, sửa chữa. Đến nay, 16 công trình được nâng cấp sửa chữa xong đưa vào hoạt động và cung cấp nước sạch cho người dân nông thôn.
Được sự quan tâm của UBND tỉnh, các sở, ban ngành liên quan đã bố trí nguồn vốn trung hạn từ Chương trình xây dựng NTM để Trung tâm nâng cấp, sửa chữa, đấu nối mở rộng các công trình cấp nước tập trung, kịp thời cung cấp nước sạch cho người dân.
Năm 2020, hạn hán kéo dài, dẫn đến tầng nước ngầm tụt giảm nghiêm trọng, nên người dân không có đủ nước sinh hoạt để dùng. Nhờ được UBND tỉnh phân bổ từ nguồn vốn dự phòng của tỉnh, thực hiện các giải pháp chống hạn nên đã kịp thời cung cấp nước SH cho bà con. Mặt khác, Trung tâm đã dùng nguồn kinh phí dịch vụ cấp nước để sửa chữa, đấu nối và khắc phục kịp thời các sự cố thiếu nước do hạn hán gây ra, hư hỏng đường ống do làm đường giao thông trong Chương trình xây dựng NTM của các trạm cấp nước do Trung tâm quản lí, vận hành để đảm bảo duy trì cấp nước cho Nhân dân.
Hiện, Trung tâm NS&VSMTNT Quảng Ngãi đang quản lý, vận hành 16 công trình, đảm bảo cấp nước sinh hoạt cho 12.000 hộ dân nông thôn. Không chỉ đầu tư nâng cấp sửa chữa và xây dựng mới công trình, chú trọng đến công tác tuyên truyền cho người dân về vấn đề sử dụng nước sạch, bảo quản nguồn nước, Trung tâm còn chú trọng đến công tác nâng cao hiệu quả quản lý các công trình nước sạch.
Trong hơn 40 năm qua, kể từ khi thực hiện Khoán 100 (Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp), rồi Khoán 10 (Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.