Điều kiện khó khăn, kinh tế vùng chủ yếu là nông nghiệp, địa bàn nông thôn rộng khắp, nguồn lực trong dân hạn chế, hỗ trợ từ ngân sách hạn hẹp; sản xuất nông nghiệp bấp bênh, hiệu quả thấp, doanh nghiệp nông thôn nhỏ bé, kết nối cung - cầu nông sản bất cập… Đó là những “điểm nghẽn” của hầu hết các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) khi bắt tay xây dựng nông thôn mới (XDNTM).
Diện mạo mới
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm một HTX áp dụng GlobalGAP ở Đồng Tháp.
Sau 5 năm XDNTM, ĐBSCL đã xuất hiện nhiều “điểm sáng” đáng ghi nhận, bước đầu tạo ra một diện mạo mới. Kết quả chung cho thấy, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng trong thực tế đã xuất hiện nhiều cách làm mới sáng tạo, mô hình hay trong tuyên truyền, vận động người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị vào cuộc.
ĐBSCL đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung (lúa gạo, thủy sản và cây ăn quả). Nhiều mô hình mới như “cánh đồng lớn” nhanh chóng trở thành hình mẫu của cả nước. Bên cạnh “cánh đồng lớn” là nhiều hình thức hợp tác kiểu mới, các câu lạc bộ sản xuất theo ngành hàng như mía, thủy sản, trái cây. Nhiều mô hình hay trong nông nghiệp của vùng đã góp phần quan trọng nâng cao thu nhập của một bộ phận dân cư nông thôn. Qua phong trào XDNTM, hệ thống chính trị của các tỉnh, thành không ngừng được củng cố, nhất là ở cơ sở, đội ngũ cán bộ, công chức các xã được chuẩn hóa; chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở được nâng lên; các tổ chức chính trị xã hội tiếp tục được củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động.
Kết quả chung, đến cuối năm 2015, toàn vùng ĐBSCL có 236/1.260 xã đạt tiêu chí NTM, chiếm 18,7% tổng số xã, cao hơn bình quân chung cả nước (ước khoảng 17%). Ngoài ra, toàn vùng còn có 203 xã đạt từ 15 - 18/19 tiêu chí, chiếm 16,11%; 598 xã đạt từ 10 - 14 tiêu chí, chiếm 47,46%; 222 xã đạt từ 5 - 9 tiêu chí, chiếm 17,62% ...
Nhiều địa phương đã thực hiện lồng ghép nội dung XDNTM và tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; quan tâm đẩy mạnh nghiên cứu, thực hiện thí điểm nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp, có kế hoạch đào tạo, thu hút nguồn nhân lực, phát triển các mô hình kinh tế tập thể, xúc tiến đầu tư và thương mại, gắn kết kinh tế nông thôn với đô thị; tận dụng tối đa lợi thế của vùng, địa phương, phát huy nội lực để xây dựng nhiều mô hình canh tác hiệu quả và khơi thông đầu ra cho nông sản.
Cùng với nông nghiệp, lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ cũng được tập trung chỉ đạo, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển nông nghiệp. Bên cạnh phát triển sản xuất, các xã NTM còn tập trung làm tốt công tác dạy nghề, tạo việc làm, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, nâng cao thu nhập cho người lao động; biến địa bàn nông thôn thành "hệ đệm" cho các đô thị.
Đích còn xa
Đích đến của NTM vẫn còn đang ở phía trước. Hạ tầng giao thông, thương mại, thủy lợi tuy được quan tâm đầu tư, bước đầu tạo ra diện mạo mới, nhưng còn khoảng cách xa trước yêu cầu phát triển sản xuất quy mô lớn. Phần lớn đường giao thông nông thôn trên địa bàn vùng mới phục vụ cho đi lại, chưa đáp ứng tốt vận chuyển hàng hóa, nông sản và nhu cầu giao thông kinh tế; hệ thống thủy lợi chưa kết nối tốt cho vùng nguyên liệu sản xuất lớn, thủy lợi đa mục tiêu; hệ thống chợ nông thôn còn tạm bợ, chưa thật sự trở thành kênh phân phối hai chiều và cầu nối cho nông thôn và đô thị. Đó là những cản trở khó thu hút nhiều doanh nghiệp vào địa bàn nông thôn tạo ra “cốt vật chất”, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân.
Trong thời gian tới, XDNTM vùng ĐBSCL cần tiếp tục tập trung giải quyết những khó khăn từ “điểm nghẽn” về vốn, phát huy nội lực, nhất là đầu tư phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng và chăm lo an sinh xã hội. XDNTM là “cuộc cách mạng ở nông thôn”. Việc đạt tiêu chí là yêu cầu bắt buộc để được công nhận theo “chuẩn quốc gia”. Nhưng trên hết vẫn là đời sống của người dân, môi trường nông thôn văn minh, đáng sống và phát triển bền vững.
NTM thực sự là một môi trường đáng sống phải được đo lường bằng sự hài lòng của người dân hơn là những tiêu chí mang tính kỹ thuật. Yêu cầu đó phụ thuộc vào kết quả sáng tạo của quá trình lãnh đạo “cuộc cách mạng ở nông thôn”, vận động quần chúng, phát huy vai trò làm chủ của người dân. Năm 2020 khi Việt Nam “cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển” cũng chưa phải là cái đích cuối cùng trong XDNTM.
Trần Hữu Hiệp
Từ năm 2010, Liên Hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ, hoàn thành trước thời hạn gần 10 năm 3 mục tiêu (xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình đẳng giới và vị thế cho phụ nữ) và có nhiều tiến bộ, đạt tiệm cận 5 mục tiêu còn lại.
Trong 5 ngày, từ 7/9 đến 12/9, “quái” bão YAGI (bão số 3) với sức gió cấp 12 -13, giật cấp 14 -15 -16 đã đổ bộ vào Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội,… và sau đó, hoàn lưu của nó gây mưa lớn liên tục trên toàn miền Bắc đã gây những tổn thất vô cùng to lớn về người và thiệt hại rất nặng nề về tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân.
Xuất khẩu nông sản của ta hiện trong TOP 10 -15 thế giới. Nông sản Việt có mặt tại khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch tăng mạnh trong 15 năm qua: năm 2009 mới chỉ gần 16,5 tỷ USD thì năm 2014, kim ngạch đạt 31 tỷ USD, năm 2019 đạt 41,3 tỷ USD, năm 2023 đạt trên 53 tỷ USD, đến hết tháng 7 năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đạt 34,27 tỷ USD, phấn đấu đạt 57 -58 tỷ USD cả năm.