Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ sáu, ngày 26 tháng 4 năm 2024  
Chủ nhật, ngày 15 tháng 5 năm 2016 | 3:5

Trấn Yên, cánh chim đầu đàn trong XDNTM

Sau hơn 5 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (XDNTM), huyện Trấn Yên đã trở thành cánh chim đầu đàn của tỉnh Yên Bái trong nhiều phong trào. Phóng viên Báo Kinh tế nông thôn đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Đức Mầu, Phó chủ tịch UBND huyện để thông tin thêm về thành quả, cách làm và những cố gắng của chính quyền cùng toàn thể nhân dân nơi đây.

Ông Nguyễn Đức Mầu, Phó chủ tịch UBND huyện.

Xin ông cho biết những kết quả nổi bật sau hơn 5 năm thực hiện chương trình XDNTM trên địa bàn huyện?

XDNTM là chương trình tổng thể, toàn diện trên tất cả các mặt từ phát triển kinh tế - văn hóa, xây dựng hệ thống chính trị tới đảm bảo trật tự an toàn xã hội, củng cố an ninh quốc phòng.  Trấn Yên có 21 xã, 1 thị trấn, trong đó có 3 xã và 18 thôn, bản thuộc diện 135. Thời gian qua, với sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, sự vào cuộc mạnh mẽ của các cơ quan, ban ngành và toàn thể nhân dân, nhiệm vụ XDNTM trên địa bàn huyện đã giành được nhiều kết quả khả quan, được tỉnh Yên Bái đánh giá là lá cờ đầu, được Chính phủ tặng cờ thi đua xuất sắc. Tới nay, 100% trục đường giao thông từ huyện đến trung tâm các xã đã được cứng hóa; mở mới và kiên cố hóa được 299km đường liên xã, liên thôn bản các loại; 100% số xã có hệ thống điện lưới quốc gia; 62% số kilômét kênh mương đã được kiên cố hóa, các công trình thủy lợi, hồ đập, hệ thống đê bao được quan tâm, đẩy mạnh đầu tư.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ, đa dạng hóa ngành nghề; sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh theo hướng hàng hóa, xây dựng các vùng chuyên canh. Hiện, huyện đã xây dựng được một số vùng chuyên canh cho giá trị kinh tế cao như vùng chè tập trung 500ha, vùng tre măng Bát Độ gần 2.000ha, vùng quế 10.000ha, vùng dâu nuôi tằm khoảng 300ha và một số vùng chuyên canh khác.

Bộ mặt nông thôn Trấn Yên đã có nhiều thay đổi, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao; thu nhập bình quân đạt 25 triệu đồng/người, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới là 25,48%; số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế chiếm 33,3%. Toàn huyện có trên 75% số hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa; công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ dưới 5 tuổi được duy trì với 100% số xã. Khi mới triển khai chương trình, huyện chỉ có 1 xã đạt 5 tiêu chí thì hết năm 2015, 100% số xã trên địa bàn đã đạt trên 5 tiêu chí, có 3 xã cán đích NTM, 9 xã đạt từ 10 – 15 tiêu chí.

Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện chương trình XDNTM và giải pháp tháo gỡ của địa phương là gì, thưa ông?

Thuận lợi lớn nhất của chúng tôi là luôn nhận được sự quan tâm kịp thời của cấp trên, sự chỉ đạo sát sao của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, sự giúp đỡ và phối hợp nhịp nhàng của Ban chỉ đạo XDNTM cũng như các ban ngành đoàn thể trong tỉnh. Một trong những thuận lợi không kém chính là sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ rất cao của nhân dân đối với chủ trương này. Bên cạnh đó, Trấn Yên có địa thế thuận lợi, giáp ranh với TP.Yên Bái, giao thông thuận tiện, có nhiều cơ hội phát triển kinh tế...

Mặc dù vậy, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn bởi Trấn Yên vẫn là huyện nghèo, đời sống của đại đa số nhân dân còn ở mức thấp; nông nghiệp, nông thôn phát triển chưa đồng bộ, sản xuất vẫn còn tình trạng nhỏ lẻ, manh mún; việc huy động nguồn lực vào XDNTM, vào sản xuất còn gặp nhiều khó khăn. Trước thực tế đó, ngay từ khi triển khai, cấp ủy, chính quyền các cấp trong huyện đã vào cuộc một cách đồng bộ và nghiêm túc, chúng tôi nhanh chóng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, bằng nhiều hình thức, qua nhiều hội nghị nhằm giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân sớm hiểu được XDNTM là như thế nào, ai là chủ thể, những việc cần phải làm. Cùng với đó, chúng tôi rất coi trọng giải pháp sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn lồng ghép để công tác XDNTM trên toàn địa bàn đạt kết quả cao,...

Mục tiêu năm 2016 của địa phương là gì, lĩnh vực nào sẽ được huyện tập trung thực hiện trong thời gian tới, thưa ông?

Năm 2016, chúng tôi quyết tâm đưa 3 xã cán đích NTM, gồm Nga Quán, Đào Thinh, Bảo Hưng; phấn đấu 12 xã đạt từ 10 tiêu chí trở lên; các xã đã về đích tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng các tiêu chí. Thời gian tới, chúng tôi sẽ quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đối với các khu vực sản xuất nông nghiệp tập trung; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng hệ thống giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương nội đồng; quan tâm xây dựng, sửa chữa, nâng cấp các công trình như chợ nông thôn, cơ sở vật chất trường học, trạm y tế, nhà văn hóa thôn bản,...  Bên cạnh đó, chúng tôi chú trọng tới việc đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, khuyến khích việc hình thành các hợp tác xã, tổ hợp tác, tạo điều kiện để các hộ, nhóm hộ liên kết sản xuất được tốt hơn; đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm nâng cao thu nhập cho người dân. Phong trào chăm sóc sức khỏe, phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn được chúng tôi duy trì và thường xuyên quan tâm.

Xin cảm ơn ông! Chúc Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Trấn Yên tiếp tục là cánh chim đầu đàn trong XDNTM.

Đình Hợi (thực hiện)

 

 

KTNT
Ý kiến bạn đọc
  • Sáng mãi trang sử vàng tháng Tư

    Sáng mãi trang sử vàng tháng Tư

    Theo vòng quay của thời gian, lại một tháng Tư nữa lại về! Tháng Tư về, nhiều khoảnh khắc thiên nhiên tươi đẹp đọng lại trong mỗi người khi mùa Xuân sắp qua đi, nhường chỗ cho mùa Hè tràn ngập ánh vàng lấp lánh của nắng, sắc trắng mong manh của hoa loa kèn có mặt ở mọi nẻo đường, nhiều góc phố Thủ đô yêu dấu.

  • Thanh niên với phát triển đất nước thời kỳ mới

    Thanh niên với phát triển đất nước thời kỳ mới

    Những người từ 15 đến 30 tuổi được gọi là thanh niên. Đây là lứa tuổi đang trưởng thành, đang vào đời, bắt đầu hành trình lập thân lập nghiệp.

  • Diện mạo mới từ chính sách phù hợp

    Diện mạo mới từ chính sách phù hợp

    Trong hơn 40 năm qua, kể từ khi thực hiện Khoán 100 (Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp), rồi Khoán 10 (Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.

Top