Cả 3 Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Xây dựng Nông thôn Mới; Giảm nghèo Bền vững và Phát triển Kinh tế-Xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đều chậm giải ngân vốn, khó hoàn thành mục tiêu.
Ngày 30/10, Quốc hội thảo luận ở hội trường về việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
Cả 3 Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Xây dựng Nông thôn Mới; Giảm nghèo Bền vững và Phát triển Kinh tế-Xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đều chậm giải ngân vốn, khó hoàn thành mục tiêu, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê Kđăm, Phó trưởng đoàn giám sát của Quốc hội về việc triển khai thực hiện 3 Chương trình Mục tiêu Quốc gia cho biết như vậy.
Khó hoàn thành mục tiêu
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê Kđăm cho biết đoàn giám sát đã tiến hành giám sát trực tiếp Chính phủ, 11 bộ, ngành và 15 tỉnh đại diện cho các vùng, miền và mức độ thụ hưởng các chương trình; tổ chức nhiều cuộc làm việc với các bộ, ngành, Chính phủ; sử dụng tối đa kết quả kiểm toán, thanh tra và ý kiến của các bộ, ngành, địa phương.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn thường trực Đoàn giám sát của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm trình bày trong phiên họp.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc cũng cho biết, việc triển khai chương trình có nhiều hạn chế. Nguồn vốn đầu tư phát triển ngân sách Trung ương phân bổ chậm, tỷ lệ đối ứng còn cao gây khó khăn cho một số địa phương, nhất là các tỉnh nghèo.
Tiến độ giải ngân vốn ngân sách Trung ương năm 2022 và giai đoạn 2021-2025 còn chậm so với yêu cầu, nhất là vốn sự nghiệp, đến 30/6 mới giải ngân được 9,17% kế hoạch vốn của năm.
Về kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn giám sát của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm cho biết, giai đoạn 2021-2025 được Quốc hội thông qua chủ trương tại Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28/7/2021, có tổng kinh phí tối thiểu là 196.332 tỷ đồng. Ngoài chính sách chung, Chương trình còn có 06 chuyên đề trọng tâm và thực hiện trên địa bàn 63 tỉnh, thành phố cả nước.
Kế thừa và phát huy kết quả các giai đoạn trước, phong trào xây dựng nông thôn mới của cả nước đã bám sát mục tiêu: “gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hoá, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững”. Tổ chức bộ máy thực hiện Chương trình nông thôn mới được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương. Công tác lập kế hoạch, phân bổ vốn đảm bảo nguyên tắc và đúng theo quy định.
Tính đến 30/6/2023, cả nước có 6.022/8.177 xã (73,65%) đạt chuẩn nông thôn mới, 1.331 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 176 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; có 263/644 đơn vị cấp huyện (40,8%) được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới; 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng còn một số bất cập, như: Hệ thống các văn bản chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn thực hiện của Trung ương và địa phương còn nhiều, ban hành chậm, chưa đồng bộ, còn có vướng mắc nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Nguồn vốn đầu tư phát triển ngân sách trung ương phân bổ chậm, tỷ lệ đối ứng còn cao gây khó khăn cho một số địa phương, nhất là các tỉnh nghèo. Tiến độ giải ngân vốn ngân sách trung ương năm 2022 và giai đoạn 2021-2025 còn chậm so với yêu cầu, nhất là vốn sự nghiệp, đến 30/6/2023 mới giải ngân được 9,17% kế hoạch vốn của năm. Kết quả xây dựng nông thôn mới chưa đồng đều, chưa thực sự bền vững; một số địa phương thiếu quyết liệt và có dấu hiệu chững lại trong chỉ đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới…
Về Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 được Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 24/2021/QH15, có tổng vốn tối thiểu là 75.000 tỷ đồng. Chương trình gồm 07 dự án với 11 tiểu dự án, được thực hiện trên địa bàn cả nước.
Kết quả triển khai thực hiện Chương trình đã cơ bản bám sát mục tiêu“Thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững”; tuân thủ các nguyên tắc, giải pháp theo Nghị quyết 24. Nhiều địa phương có mô hình hay, cách làm sáng tạo đạt hiệu quả trong quá trình tổ chức thực hiện. Đến tháng 9/2022, là Chương trình đầu tiên trong 3 Chương trình MTQG đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện ở cấp Trung ương. Các địa phương đã cơ bản ban hành đầy đủ văn bản theo quy định. Việc lập, giao kế hoạch vốn thực hiện Chương trình tuân thủ theo quy định pháp luật. Chương trình đã thực hiện cơ bản đạt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số hằng năm theo Nghị quyết 24 đề ra.
Báo cáo giám sát đã nêu rõ tồn tại, hạn chế, đó là việc ban hành văn bản của Chương trình vẫn chậm so với quy định Nghị quyết 24. Một số văn bản đã ban hành có khó khăn vướng mắc, địa phương kiến nghị cần phải sửa đổi, bổ sung. Việc phân bổ ngân sách trung ương còn chậm; một số địa phương bố trí nguồn vốn đối ứng thấp; việc lồng ghép vốn còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Việc phát huy quyền làm chủ, sự tham gia tích cực, chủ động của cộng đồng và người dân vào công tác giảm nghèo còn chưa thực chất. Tại các huyện nghèo mới chỉ quan tâm đánh giá việc giảm tỷ lệ hộ nghèo, chưa đánh giá thực chất mức tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm. Kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo hằng năm chưa thực sự phản ánh đầy đủ các tác động của Chương trình...
Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được Quốc hội phê duyệt Chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020, có kinh phí tối thiểu làm tròn là 137.664 tỷ đồng, gồm 10 dự án, 14 Tiểu dự án thực hiện trên địa bàn 49 tỉnh.
Kết quả đạt được: Quá trình triển khai thực hiện đã bám sát mục tiêu tổng quát của Chương trình là “Giảm nghèo nhanh, bền vững, giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn, sắp xếp ổn định dân cư, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ, thu hẹp dần khoảng cách mức sống, thu nhập so với bình quân chung của cả nước...”. Chương trình thực hiện đã tích hợp trên 118 văn bản chính sách dân tộc ở giai đoạn trước, do đó bước đầu khắc phục được tình trạng manh mún, dàn trải để tập trung nguồn lực, ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết những vấn đề cấp thiết về kinh tế, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng đặc biệt khó khăn.
Đến tháng 6/2023, các văn bản chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện Chương trình cơ bản đã hoàn thành với khối lượng khá lớn, các bộ, ngành Trung ương đã ban hành khoảng 58 văn bản, ở mỗi địa phương ban hành từ 40-50 văn bản liên quan. Vốn ngân sách Trung ương đã phân bổ hết cho các địa phương, đảm bảo theo quy định hiện hành. Mặc dù còn nhiều khó khăn trong triển khai thực hiện, nhưng theo Báo cáo của Chính phủ tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số năm 2022 giảm 3.4%, đạt và vượt mục tiêu kế hoạch giao.
Tuy nhiên, việc ban hành các văn bản quản của Chương trình còn chậm, sau hơn 1 năm 2 tháng, kể từ khi Quốc hội ban hành chủ trương đầu tư tại Nghị quyết 120/2020/QH14, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Quyết định 1719/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình; các bộ, ngành ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các dự án, tiểu dự án còn chậm; chất lượng văn bản chưa cao, phải đính chính, sửa đổi, bổ sung sau khi ban hành. Đến tháng 6/2023 vẫn còn 21 tỉnh chưa thành lập Tổ Công tác. Việc phân bổ vốn Trung ương chậm, dẫn đến đối tượng thực hiện của một số chính sách, ở một số địa phương có sự thay đổi, không còn phù hợp.
Kết quả giải ngân đạt thấp, từ năm 2022 đến 6/2023 giải ngân khoảng 18,9% so với kế hoạch trung hạn. Theo báo cáo, Chương trình đến nay đã đạt và vượt nhiều chỉ tiêu đề ra, song trên thực tế, Đoàn giám sát nhận định: đời sống đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều khó khăn, kinh tế, xã hội phát triển chậm; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao.
Đoàn giám sát đã phân tích 7 nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên trong đó, lần đầu tiên thực hiện cơ chế, quản lý, chỉ đạo chung 3 Chương trình mục tiêu quốc gia nên không tránh khỏi những khó khăn, lúng túng về chỉ đạo, tổ chức thực hiện; Năng lực thực tiễn của một bộ phận cán bộ, công chức tham mưu, xây dưng văn bản, chính sách; Việc phối hợp của một số cơ quan, Bộ, ngành, địa phương còn chưa chặt chẽ; Cách tiếp cận xây dựng các Chương trình chưa thực sự phù hợp, được thiết kế phức tạp gồm nhiều chính sách, dự án, tiểu dự án...
Đoàn giám sát nêu rõ các tồn tại, hạn chế, vướng mắc chung và của từng Chương trình như trên, trước hết trách nhiệm thuộc về Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương, mà chủ yếu là các cơ quan chủ chương trình (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; Ủy ban Dân tộc), các bộ, ngành liên quan (nhất là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính). Bên cạnh đó cũng có trách nhiệm thẩm tra, giám sát, đôn đốc của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ quan các cấp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các Chương trình.
“Có tiền mà không giải ngân được hoặc chậm đến tay dân là có lỗi với dân”
Phát biểu trước Quốc hội, đại biểu Phạm Văn Hoà (Đồng Tháp) cho rằng, Chính phủ, Ban chỉ đạo cầu thị tiếp thu những ý kiến đóng góp của người dân, chuyên gia về khó khăn vướng mắc trong tổ chức thực hiện thời gian qua nên đã có chỉ đạo kịp thời tháo gỡ, sửa đổi bổ sung những văn bản chồng chéo, bất cập, cách làm phù hợp với tình hình thực tiễn của vùng địa phương.
Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa
Dẫn kết quả chương trình nông thôn mới, ông Phạm Văn Hoà cho biết, đến nay, cả nước có hơn 6.000 xã (73,65%) đạt chuẩn nông thôn mới, 1.331 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 176 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; có 263/644 đơn vị cấp huyện (40,8%) được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới; đặc biệt 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó, có 5 tỉnh hoàn thành chương trình nông thôn mới).
Tuy nhiên, đại biểu nêu bất cập khi một số địa phương chưa ban hành tiêu chí NTM phù hợp với vùng đồng bào dân tộc, miền núi, giải ngân chậm, vốn đối ứng cao gây khó khăn cho các tỉnh thu nhập thấp, xã được công nhận NTM hoặc nâng cao chưa thật sự bền vững, còn nợ tiêu chí, có sự du di để đạt tiêu chí, còn nặng thành tích để “bằng chị bằng em”, dẫn đến nợ đọng xây dựng cơ bản đến nay chưa xử lý được, cơ sở hạ tầng có dấu hiệu xuống cấp nhưng không có kinh phí sửa chữa.
Đại biểu cũng lưu ý việc vận động xã hội hoá rất khó khăn, mô hình sản xuất theo hướng bền vững, xanh, sạch còn chậm và nhân rộng còn là thách thức. Bên cạnh đó, năng lực của cán bộ làm công tác xây dựng NTM còn có những mặt hạn chế nhất định, lại luôn thay đổi do yêu cầu nhiệm vụ ...
“Việc chạy theo thành tích để đạt chuẩn là điều cần phải tránh, các tiêu chí phải đảm bảo, khi nào đạt thì mới công nhận” – ông Hoà nêu quan điểm.
Đại biểu đề nghị cần khắc phục việc hướng dẫn, phân bổ vốn Trung ương chậm vì “có vốn mà không giải ngân được hoặc chậm đến tay người dân là có lỗi với dân”.
Ông nêu thực tế, các xã khu vực 2,3 khi đạt chuẩn NTM thì không còn được hưởng các chế độ an sinh xã hội của Nhà nước nên biểu hiện chần chừ không muốn phấn đấu đạt chuẩn, thậm chí có xã đến ngưỡng rồi vẫn chần chừ, đó là nghịch lý. Do đó, cần phải hài hoà lợi ích trước mắt và lâu dài của các xã, để đạt sự đồng thuận cao.
Ngoài ra, cần khắc phục biểu hiện tự mãn của tổ chức, cá nhân khi đã đạt chuẩn NTM, thiếu tập trung chỉ đạo, kiểm tra, giám sát duy trì nâng chất lượng các tiêu chí, trông chờ ỷ lại vào cấp trên về kinh phí.
Cũng đánh giá cao kết quả đạt được của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, song ông Phạm Văn Hoà cho biết, giám sát chỉ ra sự phối hợp giữa các bộ ngành trung ương với địa phương có mặt chưa chặt chẻ, cần phải xử lý để guồng máy hoạt động tốt.
Hiện giải ngân vốn đạt rất thấp, dưới 50%, thậm chí có những dự án đạt dưới 10% “là chuyện dài nhiều tập”, làm ảnh hưởng đến các chính sách an sinh xã hội. Do đó, đại biểu đề nghị chỉ đạo quyết liệt để khắc phục, gắn với trách nhiệm. Bởi, giữa các địa phương cũng có kết quả giải ngân khác nhau trong khi có cùng một cơ chế, chính sách, thời điểm phân bổ, giao vốn...
Người dân chưa muốn thoát nghèo vì sợ “nghèo lại hoàn nghèo”
Phát biểu tranh luận tại hội trường, đại biểu Tạ Văn Hạ (Quảng Nam) cho rằng, có những người dân chưa muốn thoát nghèo. Mặc dù đánh giá cao 3 CTMTQG trong thời gian qua, song đại biểu Tạ Văn Hạ cho rằng, nguyên nhân căn cơ mà người dân chưa muốn thoát nghèo là cách làm và chất lượng của các Chương trình chưa có sự bền vững, tính bền vững chưa cao cả trước mắt và lâu dài.
“Người dân cảm thấy chưa yên tâm khi thoát nghèo, hết chương trình, hết dự án thì “nghèo lại hoàn nghèo”. Vì vậy, đề nghị cần quan tâm đến cách làm và chất lượng của các Chương trình, phải đảm bảo mang tính bền vững cao, đây mới là căn cơ”, đại biểu đoàn Quảng Nam nói.
Đại biểu Tạ Văn Hạ (Quảng Nam)
Đại biểu Đỗ Chí Nghĩa (Phú Yên) cũng cho rằng, giảm nghèo bền vững là một thách thức rất lớn. Đại biểu nhấn mạnh, điều quan trọng là ý chí vươn lên của người dân, tự lực cánh sinh để thoát nghèo, ứng phó với mọi hoàn cảnh có thể xảy đến.
“Thực tế cho thấy, có nhiều trường hợp chỉ mong được tiếp tục trong diện hộ nghèo để tiếp tục được hưởng các chế độ, chính sách hỗ trợ, ưu tiên giảm nghèo. Do vậy, cần có sự thay đổi cơ bản về nhận thức để có được chuyển biến thực chất trong vấn đề này”, đại biểu Đỗ Chí Nghĩa nhấn mạnh.
Về giải ngân cho công tác giảm nghèo, đại biểu tỉnh Phú Yên cho rằng, giải ngân được thực hiện ồ ạt, tuy nhiên, hiệu quả lại chưa đảm bảo. Nguồn ngân sách chưa chắc đến được đúng đối tượng và khó để đo đếm hiệu quả của việc triển khai nguồn lực.
Đại biểu Nguyễn Lân Hiếu (Bình Định) phát biểu tranh luận cho rằng, nguyên nhân tái nghèo một phần có nguyên nhân từ thiết kế các chương trình giảm nghèo, trong đó có 7 dự án nhưng chưa có dự án cụ thể nhấn mạnh nâng cao chất lượng điều trị và chăm sóc sức khỏe người dân trong các địa bàn khó khăn.
Theo đại biểu Nguyễn Lân Hiếu,qua thực tế giám sát cho thấy, có nguyên nhân trực tiếp dẫn tới tái nghèo là gia đình có người ốm, với những bệnh phổ biến như tiểu đường, cao huyết áp… cần được quản lý và điều trị thường xuyên, nhưng nguồn lực cho y té cơ sở còn hạn chế nên việc điều trị còn nhiều bất cập.
“Không có thuốc tốt để điều trị thường xuyên, không có phương tiện để chăm sóc, kiểm soát các biến chứng cũng như sơ cứu ban đầu. Chính vì vậy, tỷ lệ biến chứng gặp rất cao ở địa phương nghèo; một người thân trong gia đình bị đột quỵ phải lên thành phố chữa bệnh là tất cả tiền dự trữ trong nhà đội nón ra đi; chưa kể phải vay mượn khắp nơi. Ra viện về nhà kèm theo tàn phế không còn khả năng lao động lại là một gánh nặng để gia đình phải chăm sóc…”, đại biểu Lân Hiếu nói.
Đại biểu đoàn Bình Định cho rằng, giảm nghèo phải đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống. Theo đó, đề nghị Quốc hội đặc biệt lưu ý vấn đề này các nguồn lực Bộ Y tế và các địa phương cần tập trung vào dự án chẩn đoán và điều trị bệnh lý không lây nhiễm phổ biến có tỷ lệ tử vong cao; tuyên truyền không mang thai ở vị tuổi thành niên; hỗ trợ chăm sóc những trường hợp trẻ đẻ non di tật bẩm sinh, đặc biệt chú ý đến tiêm chủng và dinh dưỡng, phát triển chuyên ngành lão khoa tại địa phương…
Đối với chương trình giảm nghèo bền vững, các đại biểu cũng đề nghị xem lại các nội dung như đào tạo nghề cho người nghèo, tránh lãng phí và kém hiệu quả. Cần đưa tiêu chí để đánh giá và xét danh sách cộng đồng nghèo để có cơ sở triển khai hỗ trợ cộng đồng đối với những nội dung cần thiết. Cần đánh giá đúng thực trạng về việc giảm nghèo hiện nay đã thực chất hay chưa.
Cần cơ chế đặc thù cho an sinh xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu sổ
Cho ý kiến về kết quả triển khai Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đại biểu Hoàng Thị Thu Hiền (Nghệ An) nêu một số vướng mắc trong quá trình triển khai, như tiến độ giải ngân nguồn vốn của chương trình chậm, ban hành văn bản hướng dân chậm…
Đại biểu nhấn mạnh, khó khăn vướng mắc lớn của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là việc làm và thu nhập ổn định trên mảnh đất quê hương, nhưng rất khó có doanh nghiệp nào bất chấp những rủi ro về địa hình, địa lý và thời tiết để có thể đáp ứng mong muốn của người dân địa phương.
Đại biểu Hoàng Thị Thu Hiền (Nghệ An)
Đại biểu đề nghị tập trung tháo gỡ các quy định liên quan đến khoán vào bảo vệ rừng, nâng mức hỗ trợ để thu hút sự quan tâm của người dân cũng như của doanh nghiệp và đưa nhà khoa học tham gia thực hiện dự án.
"Khó khăn lớn nhất là quá trình triển khai trên thực địa đến tận thôn, xóm, bản, hội, nhưng tỷ lệ giải ngân đạt rất thấp. Đại biểu cho rằng, Chính phủ đánh giá thẳng thắn và đưa ra các giải pháp phù hợp, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cấp trong thực hiện chương trình. Đồng thời, Chính phủ cần thiết phải thiết lập hệ thống đánh giá giám sát chương trình thực sự khách quan khoa học để có cơ sở dữ liệu đúng, xác thực tế và minh bạch", nữ đại biểu đoàn Nghệ an nói.
Đại biểu Nguyễn Quốc Luận (Yên Bái) cũng đề nghị Chính phủ xem xét giao chung vốn sự nghiệp thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia hàng năm trên cơ sở nguyên tắc, tiêu chí định mức phân bổ vốn đã được ban hành, không thực hiện giao theo lĩnh vực, theo dự án, tiểu dự án thành phần như hiện nay, để tạo sự chủ động linh hoạt cho các địa phương xem xét kinh phí thực hiện cho cấp huyện. Có cơ chế đặc thù ưu đãi trong tổ chức thực hiện các chương trình cho các tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn theo hướng được tỷ lệ hỗ trợ cao hơn, để các địa phương này có thêm nguồn lực thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và các chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số.
Theo đại biểu Nguyễn Quốc Luận, qua giám sát, khảo sát cho thấy nhiều văn bản hướng dẫn còn chung chung, chưa rõ ràng khó hiểu khó thực hiện không phù hợp thực tế. Việc dẫn chiếu quá nhiều trong một văn bản dẫn đến khó khăn, lúng túng cho cán bộ và người dân đặc biệt là cán bộ cấp xã ở các địa phương miền núi vùng cao địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Đại biểu đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành khẩn trương rà soát, sửa đổi bổ sung các chính sách các văn bản chỉ đạo hướng dẫn theo hướng chi tiết rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ áp dụng trong thực tiễn. Giải thích từ ngữ đầy đủ, hạn chế tối đa việc dẫn chiếu quá nhiều các văn bản trong cùng một nội dung. Đối với cấp xã nên ban hành dưới dạng Sổ tay hướng dẫn thực hiện; đồng thời bổ sung quy định cụ thể rõ ràng việc phối hợp lồng ghép giữa các Chương trình mục tiêu quốc gia và giữa các Chương trình mục tiêu quốc gia với các chương trình dự án khác để thuận lợi cho quá trình giải ngân các nguồn vốn, hạn chế việc chồng chéo trùng lắp vào địa bàn đối tượng nguồn vốn gây thất thoát lãng phí làm giảm hiệu quả của các chương trình.
Cùng với đó, đại biểu Nguyễn Quốc Luận đề nghị Quốc hội cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân vốn ngân sách trung ương năm 2023 của ba chương trình chưa được giải ngân hết chuyển sang tiếp tục thực hiện đến hết ngày 31/12/2024.
Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Trần Quang Minh (Quảng Bình) cho biết, trên thực tế, việc người dân, nhất là người nghèo ở đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận thông tin một cách đầy đủ đối với quyền lợi, nghĩa vụ của mình không đạt như mong muốn. Nhiều người nghèo, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa được tiếp cận thông tin một cách đầy đủ nên khi triển khai bị chậm tiến độ, bị động và gặp rất nhiều khó khăn.
"Tôi cho rằng khâu cán bộ cơ sở hướng dẫn thực hiện và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tuyên truyền chưa được chú trọng, cán bộ làm chính sách rất ít, hay thay đổi, chất lượng không đồng đều, điều kiện kinh tế khi công tác ở miền núi còn khó khăn, trong khi đội ngũ Ban phát triển ở thôn bản chưa được quan tâm đúng mức, chưa có chế độ, năng lực có hạn, chưa phát huy được vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín. Tôi đề nghị, thời gian tới, cần phải tập trung chỉ đạo nhiều hơn nữa công tác tuyên truyền đến tận người dân, nhất là người nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bởi vì, khi người dân nắm được, hiểu được và đồng tình với chủ trương, chính sách thì tâm lý trông chờ, ỷ lại sẽ ít đi, hiệu quả mang lại mới thực sự bền vững, lâu dài, ý chí vươn lên của người dân đóng vai trò rất quan trọng", đại biểu Trần Quang Minh nhấn mạnh.
Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim cho biết, chuyến thăm chính thức của Tổng Bí thư Tô Lâm tới Malaysia lần này có ý nghĩa quan trọng khi hai nước nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực an ninh, quốc phòng, hợp tác biển và một số lĩnh vực hợp tác về điện, kinh tế số…
Biến đổi khí hậu, thời tiết ngày càng cực đoan, thiên tai ngày càng phức tạp, gây nhiều thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp. Tại tỉnh Quảng Bình, nông dân đã triển khai nhiều mô hình chuyển đổi trên đất gò đồi, đất kém hiệu quả để thích ứng, giảm nhẹ tác động của các loại hình thiên tai đối với sản xuất nông nghiệp, mang hiệu quả kinh tế cao.