Qua 8 năm triển khai thực hiện (2011 - 2018), TP Cẩm Phả đã huy động mọi nguồn lực với tổng kinh phí trên 3.200 tỷ đồng đầu tư cho XDNTM. Trong đó, nguồn vốn ngân sách gần 700 tỷ đồng; doanh nghiệp và nhân dân đóng góp trên 2.500 tỷ đồng,
TP Cẩm Phả là đô thị loại II, trực thuộc tỉnh Quảng Ninh. Nằm trong vùng động lực phát triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. TP có 3 xã thực hiện chương trình xây dựng NTM là Cộng Hòa, Cẩm Hải và Dương Huy. Năm 2016, cả 3 xã đã được UBND tỉnh Quảng Ninh công nhận đạt chuẩn NTM và triển khai thực hiện NTM kiểu mẫu.
Đánh giá theo 19 tiêu chí, 49 chỉ tiêu của Bộ tiêu chí Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2016 - 2020, TP Cẩm Phả đều đạt và vượt. Trong đó, hạ tầng thiết yếu được xây dựng khang trang, hiện đại; đường giao thông, hệ thống điện, viễn thông đáp ứng yêu cầu phục vụ sinh hoạt và phát triển sản xuất của người dân; nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; thu nhập bình quân đầu người đạt trung bình trên 41 triệu đồng/năm...
Bên cạnh đó, tỷ lệ người có việc làm trong độ tuổi lao động đạt trên 95%; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 92,44%. Cả 3 xã đã hoàn thành phổ cập giáo dục ở cả 3 cấp học; cơ sở vật chất y tế được đầu tư đảm bảo đạt chuẩn. Hệ thống chính trị xã hội vững mạnh, tình hình an ninh trật tự được giữ vững và ổn định…
Trong sản xuất nông nghiệp, TP đã quan tâm triển khai các giải pháp về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng cường hoạt động liên kết “4 nhà”; đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất, gắn với xây dựng thương hiệu và tiêu thụ sản phẩm, nâng cao năng suất, giá trị kinh tế, sức cạnh tranh của sản phẩm…
Với những giải pháp cụ thể, việc xây dựng NTM ở TP Cẩm Phả đã đi vào thực chất, có hiệu quả, góp phần đưa địa phương trở thành đơn vị thứ 3 hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Trong hơn 40 năm qua, kể từ khi thực hiện Khoán 100 (Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp), rồi Khoán 10 (Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.