Thúc đẩy chuyển đổi số trong xây dựng trụ cột kinh tế số, đó sẽ là những cơ hội để tăng cường phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao nếu ngành Nông nghiệp, các địa phương, doanh nghiệp và người nông dân biết tranh thủ nắm bắt cơ hội này.
Hà Nội: “Chìa khóa” để nông nghiệp bứt phá
Thành phố Hà Nội đã và đang đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý cũng như hỗ trợ các nhà sản xuất, kinh doanh nắm bắt nhu cầu thị trường, đa dạng kênh tiêu thụ sản phẩm. Cùng với đó, người dân có thể sản xuất nông sản chất lượng với chi phí thấp mang lại giá trị kinh tế cao hơn. Đó là “chìa khóa” để ngành Nông nghiệp Thủ đô bứt phá, phát triển mạnh mẽ.
Là một trong những đơn vị đầu tiên của Hà Nội thực hiện chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp, Giám đốc Hợp tác xã Rau quả sạch Chúc Sơn (huyện Chương Mỹ) Hoàng Văn Thám cho biết, từ năm 2016, hợp tác xã đã chuyển đổi số trong 2 lĩnh vực: Ứng dụng trạm cảnh báo thời tiết iMetos và cụm công nghệ eGap. Trạm cảnh báo thời tiết iMetos giúp nông dân quản lý, giám sát sản xuất, điều chỉnh kế hoạch xuống giống, quy trình chăm sóc rau kịp thời, khi thời tiết biến động.
Còn công nghệ số eGap giúp hợp tác xã thực hiện việc truy xuất nguồn gốc điện tử cho từng hộ trồng rau, từng thửa ruộng. Năm 2021, hợp tác xã tiếp tục thí điểm hoàn thiện quy trình chuyển đổi số đồng bộ trong sản xuất và phát triển chuỗi cung ứng ra thị trường, kết nối tiêu thụ trên 2 sàn thương mại điện tử: Kinhpeec/vn và Cadosa.vn có xác nhận chất lượng eGap trên tem nhãn sản phẩm (QRcode). Do minh bạch nguồn gốc, xuất xứ, nên các sản phẩm của hợp tác xã đã đưa vào các kênh phân phối hiện đại, được bán với giá ổn định hơn nhiều so với bán rau ở chợ thông thường.
Còn Giám đốc Công ty cổ phần Rau an toàn Hải Anh (huyện Đông Anh) Nguyễn Thế Hanh cho rằng, nếu chỉ qua các kênh bán hàng truyền thống, thì rất khó để quảng bá sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ. Chính vì vậy, công ty đã đăng tải hình ảnh sản phẩm rau trên các website, trang mạng xã hội..., nên ngoài việc cung cấp sản phẩm đã ký kết theo hợp đồng, mỗi ngày công ty bán được 5-6 tạ rau, củ qua hệ thống kinh doanh online. Không những vậy, thông qua kênh bán hàng này, công ty còn thu thập được dữ liệu khách hàng để có kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp, tránh tình trạng cung vượt cầu.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường khẳng định, thời gian qua, Hà Nội đã đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, như: Duy trì hệ thống truy xuất nguồn gốc nông, lâm, thủy sản, thực phẩm để minh bạch các sản phẩm trên thị trường. Đến nay, hệ thống đang quản lý 3.229 cơ sở là các hợp tác xã, cơ sở sản xuất, chế biến, sơ chế, đóng gói nông, lâm, thủy sản và đã cấp 11.713 bộ mã truy xuất nguồn gốc nông, lâm, thủy sản đủ các tiêu chí về an toàn thực phẩm lên hệ thống.
“Việc chuyển đổi số trong nông nghiệp đã mang lại nhiều lợi ích: Dự báo nhu cầu thị trường chính xác, giảm thiểu chi phí sản xuất, tối ưu hóa hoạt động... Đặc biệt, chuyển đổi số không chỉ giúp thực hiện những công việc con người khó thực hiện, mà còn tạo ra nhiều giá trị gia tăng, đưa nông sản đến tay người tiêu dùng nhanh chóng, an toàn với giá cả hợp lý…”, ông Tạ Văn Tường cho hay.
Việc chuyển đổi số trong nông nghiệp phải dựa trên nền tảng dữ liệu. Do đó, cần phải chú trọng xây dựng hệ thống dữ liệu lớn của ngành về đất đai, cây trồng, vật nuôi, thủy sản; thúc đẩy cung cấp thông tin về môi trường, thời tiết, chất lượng đất đai…
Để chuyển đổi số trong nông nghiệp thành công, Giám đốc Hợp tác xã Rau hữu cơ công nghệ cao Cuối Quý (huyện Đan Phượng) Đặng Thị Cuối đề xuất, các ngành chức năng cần mở các lớp tập huấn về sử dụng công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp để nông dân biết và áp dụng vào thực tiễn sản xuất.
Còn Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội Vũ Thị Hương thông tin, thời gian tới, Hà Nội đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, chú trọng nông nghiệp thông minh, sản xuất an toàn, truy xuất nguồn gốc, nhằm tăng tỷ trọng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh trong nền kinh tế. Trung tâm Khuyến nông Hà Nội sẽ phối hợp với các quận, huyện, thị xã tổ chức các hội nghị, tọa đàm, tập huấn về ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp để người dân nắm được những kiến thức cơ bản, phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường cho biết, để triển khai hiệu quả Chương trình chuyển đổi số thành phố Hà Nội đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (được UBND thành phố Hà Nội phê duyệt tại Quyết định số 4098/QĐ-UBND ngày 6-9-2021), qua đó đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp, trong thời gian tới, ngành Nông nghiệp Thủ đô sẽ tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại trên địa bàn thành phố cài đặt, sử dụng phần mềm chuẩn hóa quy trình sản xuất, minh bạch thông tin, mã hóa, xuất code tem QR truy xuất nguồn gốc, qua đó giúp nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị và thúc đẩy tiêu thụ nông sản. Đồng thời, tiếp tục phối hợp với các sở, ngành, địa phương của thành phố tăng cường việc đưa nông sản lên giao dịch tại các sàn thương mại điện tử…
Nam Định: Cần những "cú hích" cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp xanh, sạch, hữu cơ, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm được xác định là một trong những giải pháp then chốt để thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp của tỉnh theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Thu hoạch dưa lê siêu ngọt tại xã Nam Hùng (Nam Trực).
Những năm qua, tỉnh đặt mục tiêu xây dựng thương hiệu, đưa sản phẩm nông nghiệp của tỉnh tham gia vào chuỗi cung ứng phục vụ thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu. Để thực hiện những mục tiêu đó, tỉnh đã tập trung huy động các nguồn lực, phát huy tiềm năng và lợi thế của từng vùng, địa phương, thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác ứng dụng khoa học và công nghệ (KH và CN), nhất là công nghệ cao, để đẩy mạnh liên kết phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn. Đến nay đã có nhiều doanh nghiệp trên địa bàn ứng dụng công nghệ cao vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong đó, có 2 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp được công nhận là doanh nghiệp KH và CN là Công ty TNHH Cường Tân và Công ty Cổ phần Giống cây trồng Nam Định. Đây là các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao để nghiên cứu, chọn tạo ra sản phẩm KH và CN là các giống lúa thuần chất lượng cao như: Nam Định 5, LP5, CT16, M1-NĐ… Ngoài ra, một số doanh nghiệp như: Công ty TNHH Thủy sản Lenger Việt Nam, Công ty TNHH Một thành viên Hải sản Hùng Vương, Công ty Cổ phần Chế biến Hải sản Nam Định, Doanh nghiệp tư nhân Cửu Dung và Công ty TNHH Một thành viên Minh Dương… cũng đã tích cực tham gia vào các hoạt động ứng dụng công nghệ cao trong chế biến nông, lâm, thủy sản.
Hiện trên địa bàn tỉnh chưa hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhưng trong giai đoạn vừa qua, tỉnh đã tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và phát triển các chuỗi liên kết sản xuất các sản phẩm có thế mạnh của tỉnh. Đến nay, tỉnh đã xây dựng được 39 chuỗi liên kết giá trị trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với quy mô liên huyện, liên tỉnh, được Chi cục quản lý chất lượng nông, lâm sản và thủy sản (Sở NN và PTNT) xác nhận chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn theo Thông tư số 3075/QĐ-BNN-QLCL ngày 20-7-2016 của Bộ NN và PTNT.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng xây dựng và phát triển được 330 sản phẩm OCOP hạng 3 sao và 4 sao; 133 cơ sở áp dụng các chương trình quản lý chất lượng tiên tiến (VietGAP, HACCP); 1 doanh nghiệp được chứng nhận đang trong quá trình chuyển đổi theo yêu cầu của TCVN 11041-2:20-17 về trồng trọt hữu cơ và 1 vùng nuôi liên kết Lenger Farm 500ha tại xã Nam Điền (Nghĩa Hưng) được chứng nhận nuôi bền vững theo tiêu chuẩn ASC (là sự xác nhận cấp quốc tế đối với thủy sản được nuôi có trách nhiệm, giảm thiểu tối đa tác động xấu lên môi trường, hệ sinh thái, cộng đồng dân cư và đảm bảo tốt các quy định về lao động). Ngoài ra, tỉnh cũng chỉ đạo các ngành liên quan tư vấn, hướng dẫn 150 cơ sở xây dựng phần mềm truy xuất nguồn gốc (QR code), 33 cơ sở thiết lập nhật ký điện tử để theo dõi quá trình sản xuất; tư vấn hỗ trợ xây dựng, công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm cho trên 320 cơ sở với gần 700 lượt sản phẩm nông nghiệp. Qua đó góp phần khẳng định thương hiệu, tạo môi trường lành mạnh, nâng cao giá trị thương mại và tăng độ tin cậy cho người tiêu dùng với các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh.
Thời gian qua, các hoạt động nghiên cứu KH và CN đều hướng tới việc phát triển nông nghiệp cao theo hướng hữu cơ, an toàn. Giai đoạn 2019-2023, tỉnh đã tiếp nhận, ứng dụng 45 quy trình công nghệ, xây dựng 15 mô hình ứng dụng tiến bộ KH và CN sản xuất liên kết chuỗi trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao từ sản xuất giống cây trồng, chăn nuôi đến chế biến và nuôi thủy sản. Điển hình là các đề tài, dự án: “Xây dựng mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng theo hướng hữu cơ và tổ chức sản xuất liên kết tại tỉnh Nam Định”, “Nghiên cứu tuyển chọn, lưu giữ và nhân nuôi sinh khối một số loài tảo giàu dinh dưỡng làm thức ăn nuôi ngao giống trên địa bàn tỉnh Nam Định”, “Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây dựng mô hình sản xuất hoa thương phẩm chất lượng cao tại Nam Định”…
Trong sản xuất, các doanh nghiệp, HTX, nông dân đã tích cực nhân rộng các mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ, VietGAP; đẩy mạnh cơ giới hóa các khâu sản xuất; ứng dụng công nghệ cao như sử dụng nhà màng, nhà lưới, nhà kính, tưới nước tiết kiệm… nâng cao hiệu quả trồng trọt, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Ở lĩnh vực chăn nuôi, các công nghệ và kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến như công nghệ chuồng kín, quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, quy trình VietGAHP và các tiến bộ kỹ thuật mới về giống vật nuôi được nhân nhanh trong các trang trại.
Đối với thủy sản, đã tích cực áp dụng công nghệ mới thân thiện với môi trường trong nuôi thâm canh và nuôi công nghiệp để tạo ra các sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; ngư dân tích cực đầu tư lắp đặt ra đa, máy dò cá, định vị vệ tinh GPS, hải đồ điện tử… nhằm nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ.
Những kết quả đạt được mới là bước đầu, việc đẩy mạnh, nhân rộng những mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp hiện nay ở tỉnh ta vẫn còn gặp những khó khăn, vướng mắc. Việc ứng dụng công nghệ cao chủ yếu mới ở từng khâu sản xuất chứ chưa thực hiện đồng bộ, toàn diện cả quá trình hay chuỗi giá trị sản phẩm.
Cụ thể, trong trồng trọt, công nghệ cao chủ yếu mới thực hiện ở các khâu như tưới tiết kiệm theo công nghệ tưới nhỏ giọt, tưới phun sương; canh tác cây trồng trong nhà màng, nhà lưới... Còn khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến vẫn mang tính thủ công hoặc công nghệ lạc hậu nên năng suất, chất lượng nông sản còn thấp. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao hiện nay còn hạn hẹp, không ổn định; khả năng cạnh tranh thấp; giá bán chưa tương xứng với mức độ đầu tư nên chưa có sức kích thích người sản xuất. Năng lực tài chính, kinh nghiệm của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và người dân còn hạn chế trong khi đầu tư công nghệ cao đòi hỏi nguồn lực trí tuệ, kỹ thuật, tài chính quá lớn. Một số đề tài, dự án KH và CN chưa có tính ứng dụng thực tiễn cao. Cùng với đó, cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp thông minh còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa đủ mạnh...
Thời gian tới, tỉnh tiếp tục định hướng khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, thông minh (công nghệ số) gắn với phát triển công nghiệp chế biến. Đẩy mạnh nghiên cứu, khai thác ngân hàng giống sẵn có và mua giống trong, ngoài nước để giải mã, làm chủ công nghệ trong chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi. Hình thành các chuỗi đổi mới sáng tạo ngành Nông nghiệp gắn với các mô hình kinh tế nông nghiệp, chuỗi giá trị ngành hàng, sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp liên kết với HTX và nông dân hình thành các chuỗi khép kín, ứng dụng KH và CN từ khâu sản xuất giống, canh tác đến chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh. Triển khai hiệu quả Chương trình OCOP với chất lượng cao hơn, quy mô lớn hơn, gắn với hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, thương thiệu để khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế các sản phẩm đặc trưng. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và tập trung nguồn lực KH và CN phát triển các sản phẩm chủ lực của tỉnh gắn với công nghệ cao, hữu cơ, chế biến và bảo quản sản phẩm. Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị về phát triển vùng đã được khởi động; cùng với việc thúc đẩy chuyển đổi số trong xây dựng trụ cột kinh tế số, đó sẽ là những cơ hội để tăng cường phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao nếu ngành Nông nghiệp, các địa phương, doanh nghiệp và người nông dân biết tranh thủ nắm bắt cơ hội này.
Ninh Bình: Xây dựng thương hiệu từ những sản phẩm đặc trưng
Thời gian qua, việc lựa chọn các sản phẩm chủ lực, đặc trưng của địa phương để đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, tạo dựng thương hiệu được các HTX trên địa bàn tỉnh đặc biệt chú trọng. Qua đó từng bước xây dựng thương hiệu từ các sản phẩm đặc trưng.
Sản xuất gốm tại HTX gốm Bồ Bát, xã Yên Thành (Yên Mô).
Từ lâu khi nhắc đến ẩm thực của Ninh Bình, nhiều người đều biết đến món thịt dê. Thịt dê Ninh Bình nổi tiếng thơm ngon nhờ các điều kiện độc đáo của khu vực địa lý. Dê Ninh Bình được chăn nuôi theo phương thức chăn thả tự nhiên, tự do tìm thức ăn là các loại thực vật mọc trên đồi núi và bãi chăn thả. Tuy nhiên, việc chăn nuôi còn nhỏ lẻ, manh mún, tự phát, mạnh ai nấy làm nên chưa tạo dựng được thương hiệu cũng như hình thành chuỗi liên kết khép kín.
Trước yêu cầu và đòi hỏi khách quan của thực tiễn, tháng 2/2022, Liên hiệp HTX dê Ninh Bình ra đời nhằm hiệp lực phát triển quy mô sản lượng đàn dê; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, chế biến, bảo quản và đa dạng hóa các sản phẩm chất lượng cao; xây dựng và phát triển thị trường tiêu thụ rộng lớn toàn quốc và phục vụ xuất khẩu. Liên hiệp HTX Dê Ninh Bình là nơi hội tụ những cá nhân và tổ chức tâm huyết với công tác chăn nuôi, chế biến, sản xuất và kinh doanh các sản phẩm về thịt dê.
Cách đây 5 năm, khi chọn con dê để chăn nuôi, gia đình anh Đinh Văn Phong ở xã Đức Long (Nho Quan) thực hiện theo hướng tự phát, tự cung, tự cấp. Anh Đinh Văn Phong cho biết: Từ khi tham gia Liên hiệp HTX dê Ninh Bình, gia đình tôi được sự quan tâm hỗ trợ và tạo điều kiện từ các cấp chính quyền, cũng như Liên minh HTX tỉnh, hỗ trợ gia đình về con giống, hướng dẫn quy trình, kỹ thuật để chăn nuôi theo hướng hữu cơ, dê thảo dược. Đặc biệt, được Liên hiệp HTX dê bao tiêu đầu ra sản phẩm, giúp bà con yên tâm đầu tư chăn nuôi, phát triển sản xuất. Liên hiệp HTX dê Ninh Bình tuy mới đi vào hoạt động nhưng đã thu hút 10 thành viên tham gia với quy mô lên hàng nghìn con dê.
Bà Lê Minh Trang, Chủ tịch Liên hiệp HTX dê Ninh Bình cho biết: Thực hiện chủ trương của Liên minh HTX tỉnh về phát triển sản phẩm đặc trưng của địa phương, Liên hiệp HTX đã hỗ trợ bà con về con giống, quy trình sản xuất, chăn nuôi theo hướng thảo dược. Hiện nay, Liên hiệp có nhiều thành viên tham gia và một số HTX nhỏ được hỗ trợ quy trình nuôi dê. Không chỉ dừng lại ở việc nuôi dê, thời gian tới, Liên hiệp HTX sẽ hướng tới xây dựng chuỗi các sản phẩm chế biến sâu từ thịt dê, đặc biệt là các sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP. Để sản phẩm thịt dê của Ninh Bình trở thành sản phẩm đặc trưng, mang thương hiệu của địa phương.
Nhắc đến làng nghề gốm Bồ Bát hôm nay chắc hẳn ai cũng biết đến Nghệ nhân ưu tú Phạm Văn Vang, Giám đốc HTX gốm Bồ Bát - người đã có công góp phần "hồi sinh" lại làng nghề gốm Bồ Bát vốn đã bị "thất truyền" và đang trở thành thương hiệu gốm được ưa chuộng không chỉ ở Việt Nam mà còn được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Với sự quan tâm, giúp đỡ của các nghệ nhân có tâm huyết, đến năm 2003, anh Vang học thành nghề, trở về quê hương dựng nghiệp.
Năm 2004, anh Vang đã tuyển 10 lao động có tình yêu với gốm ra Bát Tràng học nghề và bắt đầu manh nha sản xuất gốm tại quê hương. Năm 2011, sau khi chuẩn bị tốt các điều hiện cho sản xuất như nhà xưởng, nhân công, máy móc, nguyên vật liệu, anh Phạm Văn Vang đã thành lập HTX, mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng 300m2 nhà xưởng, mua sắm thêm lò nung, máy nghiền đất…, tạo việc làm cho gần 20 lao động tại địa phương. Dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân trẻ Phạm Văn Vang, gốm Bồ Bát dần được phục hồi và tạo nên được chỗ đứng trên thị trường.
Đặc biệt, năm 2014, sau khi tỉnh Ninh Bình cấp bằng công nhận làng nghề gốm cổ Bồ Bát là nghề truyền thống đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho anh Vang trong việc mở rộng sản xuất, kinh doanh các sản phẩm về gốm và thu hút đông đảo người dân địa phương tham gia học nghề, làm nghề. Vì vậy, thời gian này làng nghề gốm Bồ Bát hoạt động trở lại sôi động hơn.
Hiện nay, đối với công đoạn sấy thành phẩm, để tận dụng nhiệt lượng, HTX đã lắp đặt thêm thiết bị thu nhiệt, nhiệt độ thải ra ngoài môi trường sẽ giảm xuống, do đó giảm được nguồn năng lượng lãng phí vào môi trường, nhiệt lượng tận dụng được dùng để gia nhiệt cho quá trình sấy. Việc làm này không chỉ tiết kiệm nhiên liệu mà còn giảm khí độc phát thải ra môi trường. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã giúp đơn vị giảm được chi phí trong sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường hiện nay.
Ngày nay, gốm Bồ Bát không những đã nổi danh khắp cả nước mà còn vươn ra các thị trường thế giới như Mỹ, Nhật… Sự hồi sinh và sức sống của làng nghề gốm góp phần quan trọng vào việc bảo tồn các giá trị văn hóa làng xã và phát triển kinh tế địa phương, khẳng định được thương hiệu làng gốm cổ Ninh Bình. Sản phẩm gốm Bồ Bát đã được công nhận sản phẩm OCOP 4 sao.
Với vai trò là cơ quan đại diện bảo vệ quyền lợi cho các thành viên HTX, Liên minh HTX tỉnh đã luôn đồng hành cùng các HTX trong việc hỗ trợ tư vấn, định hướng ngành nghề kinh doanh, xây dựng chuỗi sản xuất khép kín. Đặc biệt, thực hiện Chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP) đều được các HTX tích cực tham gia, có nhiều sản phẩm đạt OCOP 3 sao, 4 sao. Việc công nhận sản phẩm OCOP đã giúp cho thị trường tiêu thụ được mở rộng, doanh thu tăng cao, khẳng định được thương hiệu trên thị trường như: mật ong Cúc Phương, na dai Phú Long, cơm cháy Xích Thổ, rượu Lai Thành, Kim Sơn.
Đồng chí Lê Thị Tâm, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh chia sẻ: Thực tế cho thấy, việc tập trung xây dựng thương hiệu đặc trưng đang là hướng đi mang lại hiệu quả rõ rệt. Không chỉ giúp các địa phương khai thác tiềm năng, lợi thế mà còn khẳng định vị trí trên thị trường trong và ngoài nước.
Vì vậy, thời gian tới, Liên minh HTX tỉnh sẽ tiếp tục đồng hành với các HTX trong việc định hướng tập trung phát triển các sản phẩm chủ lực, các sản phẩm OCOP, góp phần tạo ra những sản phẩm riêng có mang nét đặc trưng của địa phương, để khi nhắc tới mỗi sản phẩm đó, người ta sẽ nhớ tới đó là sản phẩm của Ninh Bình.
Với sự năng động, nhạy bén, khu vực kinh tế tập thể, HTX trong tỉnh đang ngày càng khẳng định vị trí, vai trò trong nền kinh tế thị trường bằng việc xây dựng thương hiệu từ những sản phẩm đặc trưng của địa phương./.
Thực hiện Tiểu dự án 2, Dự án 3, Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030 (Chương trình MTQG 1719) về phát triển vùng trồng dược liệu quý theo chuỗi giá trị, thúc đẩy khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp và thu hút đầu tư vùng đồng bào DTTS&MN, huyện Kỳ Sơn (Nghệ An) kỳ vọng sẽ mở ra cơ hội việc làm, tăng thu nhập, góp phần nâng cao mức sống, xóa đói giảm nghèo cho bà con người DTTS.
Trong khuôn khổ Dự án “Tuyên truyền, vận động nông dân xử lý rác thải tại Việt Nam, góp phần vào nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính của cộng đồng quốc tế” giai đoạn 2022 - 2024". Hôm nay (23/10), 36 hội viên Hội Nông dân huyện Bảo Yên (Lào Cai) đã đi tham quan chia sẻ kinh nghiệm mô hình xử lý rác thải hữu cơ, nuôi giun (trùn) quế.