Liên kết sản xuất chính là “chìa khóa” giúp xây dựng, phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bảo đảm hài hòa, ổn định lợi ích của các chủ thể tham gia.
Mô hình sản xuất rau, quả an toàn theo chuỗi giá trị tại xã Định Hòa (Yên Định). Ảnh: Thanh Hòa
Thanh Hóa: Để liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là nhân tố phát triển nông nghiệp bền vững
Thực tế sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh những năm gần đây đã và đang khẳng định liên kết sản xuất chính là “chìa khóa” giúp xây dựng, phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bảo đảm hài hòa, ổn định lợi ích của các chủ thể tham gia. Do vậy, tỉnh, ngành nông nghiệp và các địa phương đã triển khai nhiều giải pháp nhằm tăng cường liên kết, hợp tác, tiêu thụ sản phẩm trong sản xuất nông nghiệp.
Những năm gần đây, Chính phủ và tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp khuyến khích, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Những chính sách ấy là trợ lực, chất kết dính để thu hút các doanh nghiệp, HTX và người nông dân cùng tích cực tham gia xây dựng các mô hình liên kết. Trên địa bàn tỉnh đã có hàng nghìn mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm được hình thành ở tất cả các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp và khẳng định tính ưu việt trong nền sản xuất hiện đại. Trong đó, nhiều chuỗi liên kết được tổ chức khép kín từ cung cấp giống, vật tư đến sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng sức cạnh tranh cho sản phẩm nông sản xứ Thanh trên thị trường. Đồng thời, nâng cao thu nhập cho các chủ thể tham gia liên kết, thay đổi phương thức sản xuất, hướng đến nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại, giá trị gia tăng cao.
Khoảng 5 năm trở lại đây, chuyện sản xuất lúa theo quy mô hàng hóa không còn xa lạ với người dân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, sản xuất và phát triển lúa nếp theo chuỗi giá trị tại địa bàn xã Hà Long (Hà Trung) lại là mô hình đặc sắc được đánh giá là bền vững, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ năm 2019, HTX dịch vụ nông nghiệp Hà Long và Công ty TNHH Thương mại Lựu Sướng đã phối hợp, liên kết sản xuất lúa nếp hạt cau theo tiêu chuẩn hữu cơ thì diện tích sản xuất tại địa phương tăng lên đáng kể. Tính đến năm 2023, diện tích lúa nếp hạt cau đạt 201 ha, với sự tham gia của 253 hộ dân trên địa bàn xã. Từ sản phẩm lúa nếp hạt cau, HTX dịch vụ nông nghiệp Hà Long đã thành công xây dựng sản phẩm OCOP 4 sao cấp tỉnh với nhãn hiệu nếp cái hoa vàng Gia miêu ngoại trang. Theo thỏa thuận hợp đồng liên kết, Công ty TNHH Thương mại Lựu Sướng đầu tư hỗ trợ trước 50% lúa giống, 30% phân bón thông qua HTX dịch vụ nông nghiệp Hà Long. Đồng thời, hỗ trợ hướng dẫn nông dân từ kỹ thuật làm đất, cách gieo trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho đến khi thu hoạch và đảm nhận thu mua toàn bộ sản phẩm lúa nếp hạt cau của địa phương. HTX có trách nhiệm ký kết hợp đồng với từng hộ nông dân tham gia và tổ chức sản xuất, bảo đảm các điều kiện tưới, tiêu nước, tuân thủ quy trình kỹ thuật.
Ông Nguyễn Hữu Lựu, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Lựu Sướng, cho biết: Do ký kết hợp đồng thu mua lúa tươi theo giá tiêu thụ cố định ngay từ đầu vụ sản xuất, cho nên HTX có thể hạch toán được đầu vào, đầu ra, từ đó, tạo sự yên tâm cho các thành viên. Nhờ việc liên kết bền chặt, đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu nên qua hơn 5 năm triển khai, mô hình liên kết này đã mang lại hiệu quả cao hơn nhiều lần so với sản xuất nhỏ lẻ trước kia, góp phần nâng cao thu nhập cho bà con nông dân từ 20 - 25% so với sản xuất truyền thống. Điều đáng nói ở mô hình liên kết lúa nếp hạt cau theo hướng hữu cơ chính là quy mô sản xuất lớn theo hướng hàng hóa. Quá trình sản xuất được ứng dụng hiệu quả cơ giới hóa đồng bộ từ khâu gieo cấy, thu hoạch đến chế biến. Bên cạnh đó, chủ thể của chuỗi liên kết đã chú trọng đến xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu để nâng sức cạnh tranh và khẳng định giá trị của sản phẩm trên thị trường. Không chỉ lúa nếp, Công ty TNHH Thương mại Lựu Sướng còn liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm cho hàng trăm ha lúa ST21, ST24, ST25 cho người dân huyện Hà Trung và các địa phương lân cận.
Mặc dù đã xây dựng được hàng nghìn chuỗi liên kết sản xuất bao tiêu sản phẩm hiệu quả, song thực tế cho thấy vẫn còn nhiều “rào cản” khiến việc xây dựng, phát triển các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản trên địa bàn tỉnh chưa được như mong muốn. Bà Nguyễn Thị Dung, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thọ Xuân, cho biết: Trên địa bàn huyện Thọ Xuân đã hình thành nhiều mô hình liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm. Song hiệu quả và sức tác động của các mô hình vẫn còn là trăn trở. Nguyên nhân là do chưa có nguồn kinh phí để đầu tư hạ tầng đồng bộ cho các vùng sản xuất tập trung nên sản phẩm chưa đạt chất lượng tốt. Trình độ quản lý, nhận thức về thị trường, pháp luật của các HTX, người dân chưa cao nên chưa phát huy được các hình thức liên kết phù hợp cho mỗi ngành hàng. Nhiều liên kết còn lỏng lẻo, thiếu ràng buộc pháp lý dẫn đến tình trạng “lật kèo”, mất niềm tin giữa các bên tham gia chuỗi liên kết...
Thực trạng đã hình thành được các chuỗi liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm nông nghiệp nhưng chưa đạt được kết quả như kỳ vọng đã và đang diễn ra tại nhiều địa phương trong tỉnh. Ông Cao Văn Cường, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết: Để phát triển nông nghiệp bền vững, giá trị gia tăng cao, cần xây dựng được những chuỗi liên kết hiệu quả, bền vững. Vì vậy, ngành nông nghiệp và các địa phương thực hiện thường xuyên công tác đánh giá, dự báo thị trường để các chủ thể, địa phương kịp thời nắm bắt thông tin thị trường và cung cầu hàng hóa sản phẩm, làm cơ sở linh hoạt điều chỉnh cơ cấu sản xuất, kế hoạch kinh doanh và chủ động trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm, tạo tiền đề thiết lập hợp đồng dài hạn giữa người sản xuất và doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Cùng với đó, để “dẫn đường” cho liên kết chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, chúng ta cần tập trung phát triển các vùng chuyên canh hàng hóa gắn với đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất hiện đại; chủ động xây dựng, tổ chức hình thức liên kết phù hợp với mỗi ngành hàng cũng như thế mạnh của từng địa phương. Đồng thời, sắp xếp lại sản xuất theo hướng gắn kết chặt chẽ và bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia. Ngành nông nghiệp và các địa phương tiếp tục nghiên cứu, lồng ghép nguồn kinh phí từ các chương trình, dự án, các chính sách để trợ lực cho các HTX nông nghiệp. Trong đó, chú trọng nâng cao năng lực quản lý, trình độ sản xuất cho cán bộ, thành viên để HTX đủ tiềm lực kinh tế, am hiểu thị trường, có kiến thức pháp luật tốt đủ điều kiện làm trung gian liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp.
Đối với những chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đã được hình thành, các chủ thể cần tiếp tục duy trì, phát triển, bồi trợ để chuỗi liên kết thêm bền vững, hiệu quả kinh tế cao, chú trọng xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu, nâng sức cạnh tranh cho các sản phẩm nông sản của tỉnh trên thị trường, hướng tới xuất khẩu.
Nam Định: Thúc đẩy phát triển các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản
Trong điều kiện thời tiết, khí hậu, dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá thức ăn chăn nuôi tăng cao... thì việc tổ chức liên kết theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng mà ngành Nông nghiệp, các doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) và người nông dân trên địa bàn tỉnh đang hướng tới để phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.
Sản phẩm thịt lợn sạch của Công ty TNHH Chế biến thực phẩm Công Danh, xã Giao Hà (Giao Thủy) được đông đảo người tiêu dùng lựa chọn.
Theo đồng chí Hoàng Thị Tố Nga, Phó Giám đốc Sở NN và PTNT: Để giải quyết những hạn chế, thúc đẩy phát triển các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản, Sở NN và PTNT đã tham mưu cho HĐND, UBND tỉnh ban hành các chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn; chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế nông nghiệp tuần hoàn theo các văn bản của Trung ương và theo đặc thù của tỉnh về hỗ trợ phát triển các chuỗi cung ứng nông sản, thủy sản an toàn (Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17-4-2018; Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5-7-2018; Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày 29-8-2018 của Chính phủ). Tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng các đề án nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế; kế hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông sản theo hướng chế biến sâu, bền vững.
Bên cạnh đó, Sở NN và PTNT phối hợp với các cơ quan truyền thông của tỉnh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động hộ nông dân, chủ trang trại, tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp liên kết tạo thành các chuỗi cung ứng nông sản, thủy sản an toàn. Tổ chức hội nghị, lớp tập huấn phổ biến kiến thức, kỹ năng và tư vấn cho nông dân, HTX, tổ hợp tác, doanh nghiệp về chuỗi liên kết và xây dựng chuỗi liên kết; tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân sản xuất, kinh doanh nông sản thực phẩm an toàn vì sức khỏe cộng đồng và tham gia xây dựng các chuỗi liên kết. Xây dựng các chuyên đề, hội thảo giúp nông dân tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung bảo đảm chất lượng, an toàn và bền vững. Chú trọng huy động các nguồn kinh phí để hỗ trợ các cơ sở sản xuất theo liên kết chuỗi áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt và các chương trình quản lý chất lượng sản phẩm tiên tiến HACCP, VietGAP, GMP…
Theo ông Nguyễn Văn Toản, Giám đốc Công ty TNHH Toản Xuân, xã Yên Lương (Ý Yên): “Việc định hướng người nông dân sản xuất theo chuỗi và tuân thủ nghiêm các tiêu chí do doanh nghiệp đề ra còn nhiều khó khăn do nhận thức của một bộ phận người dân còn hạn chế. Vì vậy, chúng tôi mong muốn, ngành chức năng, chính quyền địa phương phối hợp tổ chức tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ sản xuất, kỹ năng quản trị đồng ruộng, kỹ thuật sản xuất ở quy mô lớn, nhất là ý thức tuân thủ các quy định đã thỏa thuận trong hợp đồng. Đồng thời xác lập tư duy thị trường, khả năng gắn kết trong chuỗi theo mối quan hệ hữu cơ để duy trì, phát triển chuỗi liên kết một cách bền vững, hiệu quả”.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch, hình thành các vùng sản xuất tập trung, mô hình cánh đồng lớn; công khai quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, khuyến khích dồn điền, đổi thửa, tích tụ ruộng đất; thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, chế biến với phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất theo liên kết chuỗi nhằm khai thác, tận dụng tốt các cơ hội để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu. Chú trọng phát triển các sản phẩm xuất khẩu như ngao, muối, thủy sản, nông sản chế biến.
Cải thiện thủ tục hành chính để các doanh nghiệp dễ tiếp cận và thụ hưởng chính sách hỗ trợ phát triển chuỗi liên kết. Khuyến khích hỗ trợ nông dân và các chủ trang trại thành lập HTX kiểu mới trên nguyên tắc tự nguyện, tự chịu trách nhiệm. Tăng cường hỗ trợ các HTX đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ thành lập mới; phối hợp đào tạo, tập huấn, nâng cao trình độ cho cán bộ các HTX; thường xuyên phối hợp tổ chức tập huấn, hướng dẫn nông dân đẩy mạnh áp dụng khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản; tăng cường liên kết đưa giống cây, con mới có năng suất cao vào sản xuất, chế biến sản phẩm; đồng thời xây dựng các mô hình trình diễn để các HTX, nông dân tham khảo học tập kinh nghiệm, nhân rộng. Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp liên kết với HTX và hộ sản xuất, hình thành các chuỗi khép kín từ sản xuất nguyên liệu tới chế biến, tiêu thụ sản phẩm và chia sẻ rủi ro. Nhân rộng các mô hình liên kết hình thành các vùng sản xuất tập trung: cánh đồng lớn, cánh đồng liên kết; các trang trại, hộ chăn nuôi, nuôi thủy sản tập trung áp dụng quy phạm thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP.
Triển khai đồng bộ các giải pháp xây dựng chuỗi liên kết gắn với phát triển sản phẩm OCOP. Coi trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu doanh nghiệp, nhãn hiệu sản phẩm kết hợp phát triển thị trường tiêu thụ các nông sản chủ lực của tỉnh ở trong nước và xuất khẩu. Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, chế biến nâng cao giá trị gia tăng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm và thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng mã số vùng trồng, vùng nuôi, mã số định danh, mã QR Code phục vụ truy xuất nguồn gốc, kết nối và minh bạch thông tin các vùng sản xuất, các sản phẩm nông nghiệp sản xuất theo chuỗi, tạo sự tin tưởng cho người tiêu dùng. Theo Giám đốc Công ty TNHH Công Danh (thành phố Nam Định) Trần Thị Dung: “Để hỗ trợ các doanh nghiệp liên kết sản xuất gắn với chế biến nông sản, ngành chức năng cần tích cực triển khai các dự án chuyển giao ứng dụng khoa học và công nghệ vào chế biến nông sản; hỗ trợ, khuyến khích thành viên các chuỗi tham gia các chương trình, hội chợ xúc tiến thương mại. Các doanh nghiệp, HTX chủ động phối hợp với Bưu điện tỉnh đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử PostMart.vn và Voso.vn; thành lập các cửa hàng nông sản an toàn tại một số địa phương nhằm giới thiệu sản phẩm nông, thủy sản an toàn, chất lượng đến đông đảo người tiêu dùng... tạo đầu ra ổn định cho các chuỗi liên kết”.
Để các chuỗi liên kết sản xuất không bị đứt gãy, phát huy được hiệu quả rất cần sự chủ động, tích cực của cả người dân và doanh nghiệp. Các địa phương tích cực tuyên truyền để người dân thấy được tầm quan trọng của việc tuân thủ các điều khoản trong hợp đồng liên kết; thường xuyên đánh giá, dự báo cung cầu hàng hóa nông sản của thị trường để giúp các chuỗi điều chỉnh hướng sản xuất, kinh doanh hợp lý. Cộng đồng doanh nghiệp, HTX và người sản xuất tham gia chuỗi cần phải tuân thủ nguyên tắc bảo đảm lợi ích hài hòa giữa các bên, tuân thủ nghiêm túc các điều khoản trong hợp đồng; cùng chia sẻ lợi ích cũng như rủi ro, khó khăn trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các địa phương chú trọng thực hiện tích tụ, tập trung ruộng đất để đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, thu hút doanh nghiệp đầu tư liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm. Ngoài ra, cần nâng cao năng lực quản trị, xây dựng phương án sản xuất, kết nối thị trường cho các HTX để làm trung gian liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp... Tăng cường tham mưu, tuyên truyền, hướng dẫn và tập trung giải quyết những khó khăn mà các doanh nghiệp, HTX và người nông dân đang gặp phải sẽ khuyến khích thúc đẩy việc hình thành các chuỗi liên kết, góp phần thúc đẩy ngành Nông nghiệp của tỉnh tiếp tục phát triển bền vững.
Bắc Ninh: Khi nông dân làm chủ công nghệ số
Chỉ với vài thao tác đơn giản trên điện thoại thông minh có kết nối Internet, người tiêu dùng dễ dàng thanh toán điện tử qua các ứng dụng: Ví điện tử, Mobile Banking, Internet Banking, mã QR code… giúp họ tiếp cận và làm chủ công nghệ số góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất.
Cán bộ ngân hàng giới thiệu các dịch vụ ngân hàng số cho nông dân.
Dẫn chúng tôi thăm khu vận hành, xử lý tưới và chăm sóc cho mô hình trồng các loại rau, quả rộng 5 ha ở xã Minh Tân (Lương Tài), anh Nguyễn Đình Hải tâm sự: “Bây giờ tôi đứng ngoài khu nhà màng, nhà kính, mở phần mềm trên điện thoại di động thông minh (smartphone) xem độ ẩm, độ pH của đất, dinh dưỡng của rau thế nào, nếu ổn thì bấm vào chữ “máy bơm” để bật hệ thống tưới. Các thông số liên quan đến sinh trưởng của cây trồng liên tục được cập nhật, báo về smartphone, mình theo đó điều chỉnh chủng loại, liều lượng phân bón, nước tưới phù hợp. Còn thời gian, lưu lượng tưới bao nhiêu tùy mình cài đặt trên hệ thống. Hệ thống tưới nhỏ giọt tự động ứng dụng từ công nghệ thủy canh Israel được điều khiển từ xa bằng bộ điều khiển hệ thống máy tính chủ. Hệ thống này tự động tưới chính xác cho mỗi cây, nên cây trồng phát triển đồng đều, tiết kiệm nước, phân bón, thời gian và nhân công chăm sóc”.
Với 5ha được quy hoạch hoàn chỉnh thành các khu trồng rau củ quả sạch như: măng tây, cải xanh, đỗ, dưa lưới, cà rốt…; xây dựng gần 2 ha nhà màng, nhà kính chuyên sản xuất ứng dụng công nghệ cao và liên kết hơn 20 ha vùng nguyên liệu ngoài tỉnh, đã cho doanh thu bình quân đạt khoảng 18 tỷ đồng/năm. Với việc đầu tư hệ thống sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, đến nay, mô hình trồng rau của gia đình anh Hải có 4 sản phẩm góp mặt trong Chương trình mỗi xã, thị trấn một sản phẩm (OCOP) của tỉnh Bắc Ninh. Để thanh toán tiền hàng cho khách, anh Hải cũng được cán bộ ngân hàng tư vấn sử dụng phần mềm thanh toán qua điện thoại. “Tôi rất hài lòng với các dịch vụ thanh toán điện tử trên smartphone, thật sự tiện ích mà không mất nhiều thời gian. Giờ đây, các đối tác khi đặt hàng chỉ cần một cuộc gọi hay tin nhắn, thao tác trên SMS banking là chuyển tiền thành công và hàng được phục vụ tận nơi”, anh chia sẻ.
Là một trong những người tiên phong ứng dụng công nghệ vào sản xuất trồng các loại cây ăn quả, chị Vũ Thị Sử ở xã Bình Dương (Gia Bình) rất hài lòng với hệ thống tưới tự động tiết kiệm cho 7 ha chuyên trồng các loại cây ăn quả như: nho hạ đen, nho sữa giống Hàn Quốc…. Đây là hệ thống tưới tiêu vận hành thông minh qua điện thoại di động. Trước đây, với diện tích này, gia đình chị phải thuê cả chục lao động, nay một mình chị điều khiển từ xa. Hệ thống tưới này không chỉ giúp cung cấp nước mà toàn bộ phân bón sử dụng bằng chế phẩm sinh học (IMO) và các loại phân hữu cơ khác cũng được hòa qua hệ thống tưới tự động để bón cho cây… Toàn bộ khu vườn của chị đều gắn các thiết bị cảm biến, camera theo dõi quá trình sinh trưởng của từng loại cây trồng.
Hiện nay, toàn tỉnh có nhiều mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin thông minh vào sản xuất như: hệ thống nhà kính có hệ thống điều chỉnh tự động, thiết bị cảm biến, camera theo dõi quá trình sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi… Hoạt động thanh toán mua sắm hàng hóa, vật tư nông nghiệp đầu vào; hoạt động kết nối xuất khẩu nông sản thông qua các trang thương mại điện tử (ngân hàng hỗ trợ thanh toán), hoạt động thanh toán chi trả học phí, viện phí… trở nên phổ biến, được nhiều doanh nghiệp, HTX và người dân áp dụng. Ngân hàng điện tử chính là người bạn đồng hành hỗ trợ nông dân phát triển hiệu quả. Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng được xây dựng, tiếp cận theo hướng đặt người dân, khách hàng ở vị trí trung tâm. Với những nỗ lực đó, chuyển đổi số ngành Ngân hàng gặt hái nhiều “trái ngọt”. Các dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là dịch vụ thanh toán điện tử có tốc độ số hóa, tăng trưởng nhanh. Nhiều nghiệp vụ ngân hàng được số hóa toàn diện 100%; ghi nhận tỷ lệ hơn 90% giao dịch của khách hàng được thực hiện qua kênh số.
Với sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng và sự mạnh dạn, quyết đoán của những nông dân 4.0, việc thực hiện chuyển đổi số áp dụng trong ngành nông nghiệp ở các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp… mang lại những kết tích cực. Hàng loạt chương trình, phần mềm quản trị vườn trồng, nông nghiệp chính xác được áp dụng nhằm tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên (nước, phân bón…) để dần chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại, tạo ra nhiều cơ hội tăng năng suất lao động, giảm phụ thuộc vào điều kiện môi trường, thời tiết, kiểm soát dịch bệnh tốt hơn. Hoạt động thanh toán mua sắm hàng hóa, vật tư nông nghiệp đầu vào; hoạt động kết nối xuất khẩu nông sản thông qua các trang thương mại điện tử (ngân hàng hỗ trợ thanh toán), hoạt động thanh toán chi trả học phí, viện phí… bắt đầu trở nên phổ biến được nhiều doanh nghiệp, HTX và người dân áp dụng. Ngân hàng điện tử chính là người bạn đồng hành hỗ trợ nông dân phát triển hiệu quả./.
Thực hiện Tiểu dự án 2, Dự án 3, Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030 (Chương trình MTQG 1719) về phát triển vùng trồng dược liệu quý theo chuỗi giá trị, thúc đẩy khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp và thu hút đầu tư vùng đồng bào DTTS&MN, huyện Kỳ Sơn (Nghệ An) kỳ vọng sẽ mở ra cơ hội việc làm, tăng thu nhập, góp phần nâng cao mức sống, xóa đói giảm nghèo cho bà con người DTTS.
Trong khuôn khổ Dự án “Tuyên truyền, vận động nông dân xử lý rác thải tại Việt Nam, góp phần vào nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính của cộng đồng quốc tế” giai đoạn 2022 - 2024". Hôm nay (23/10), 36 hội viên Hội Nông dân huyện Bảo Yên (Lào Cai) đã đi tham quan chia sẻ kinh nghiệm mô hình xử lý rác thải hữu cơ, nuôi giun (trùn) quế.