Mặc dù tạo ra phần lớn giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp nhưng thu nhập từ vườn hộ ở Bảo Lâm (Lâm Đồng) đang có sự cách biệt khá xa giữa các mức giàu, khá và nghèo, nên cần những giải pháp phân loại để đầu tư cho phù hợp.
Hộ giàu ở Bảo Lâm phấn đấu đạt thu nhập bình quân hơn 550 triệu đồng/năm vào năm 2020.
Chiếm 90% giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp
Theo đánh giá của Huyện ủy Bảo Lâm, với tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp hơn 58.000ha, 26.000 hộ gia đình trên địa bàn tập trung thâm canh 2 cây chủ lực là chè và cà phê, bên cạnh các loại cây tiềm năng như dâu tằm, rau, hoa, sầu riêng, bơ, mít, chuối… tạo ra 90% giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp địa phương. Đặt trong tổng cơ cấu giá trị sản xuất toàn huyện Bảo Lâm thì giá trị kinh tế hộ gia đình chiếm 44,3%.
“Ở huyện Bảo Lâm, người dân tộc bản địa sinh sống theo dòng họ, buôn làng và thường cách biệt với khu vực sản xuất; người Kinh và các dân tộc khác di cư tới định cư theo khu vực sản xuất hoặc phân tán dọc đường giao thông. Khái niệm vườn được hiểu là vườn tại khu dân cư và vườn tại các khu sản xuất của người dân đều tạo ra sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi. Vì vậy, phát triển kinh tế vườn - hộ ở Bảo Lâm là phát triển kinh tế hộ gia đình…”, (Báo cáo của Huyện ủy Bảo Lâm).
Từ cuối những năm 1990, huyện Bảo Lâm đã xây dựng nhiều mô hình kinh tế vườn-hộ để tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng. Trong đó, hiện vẫn đang tiếp tục phổ biến rộng rãi cho nông dân địa phương mô hình phát triển vườn hộ bền vững tại thôn 4, xã Lộc Phú với 70 hộ/32,3ha. Đến nay, qua khảo sát theo kinh nghiệm, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, mức thu nhập, Huyện ủy Bảo Lâm đã phân loại 4 nhóm kinh tế vườn hộ là hộ giàu (4,6%), hộ khá (20,8%), hộ trung bình ( 49,4%) và hộ hạn chế về tiềm lực (25,2%).
Từng nhóm hộ chuyển đổi vật nuôi, cây trồng
Tuy nhiên, kinh tế hộ gia đình ở Bảo Lâm cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là phân tán, nhỏ lẻ, thiếu liên kết, nguồn lực đầu tư của Nhà nước còn ít, vì vậy, Huyện ủy Bảo Lâm đã định hướng những giải pháp cụ thể, đồng bộ nhằm áp dụng hiệu quả trên từng nhóm kinh tế vườn - hộ nói trên.
Để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế vườn hộ đến năm 2020, mỗi xã trên địa bàn huyện Bảo Lâm phải xây dựng từ 2- 4 mô hình trồng trọt, chăn nuôi phù hợp với từng nhóm hộ kinh tế vườn. Đối với nhóm hộ giàu tập trung ứng dụng trên 70% tiêu chí sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, chủ động 100% nước tưới cho cây trồng và phục vụ cho chăn nuôi lớn theo quy mô trang trại. Nhóm hộ khá tiếp tục chuyển đổi 100% diện tích cây trồng giống mới có năng suất và chất lượng cao. Tỷ lệ này đối với nhóm hộ trung bình là 80%, trong đó bố trí những diện tích bước đầu sản xuất theo hướng hữu cơ, VietGAP.
Đặc biệt, nhóm hộ hạn chế về tiềm lực cần được hỗ trợ vốn đầu tư máy móc, thiết bị tưới tiêu cho ít nhất 50% diện tích cây trồng, đồng thời tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, hội thảo trình diễn mô hình. Riêng những hộ thiếu đất sản xuất cần tận dụng trồng xen các loại cây lương thực, rau màu, cỏ chăn nuôi trong thời gian đầu tư xây dựng cơ bản các loại cây trồng chủ lực; tận dụng phế phẩm nông nghiệp để phát triển chăn nuôi quy mô vườn- hộ như trâu, bò, dê, gia cầm…
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020, sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của kinh tế hộ ở Bảo Lâm đạt tiêu chuẩn VietGAP trên 30% (nhóm hộ giàu), 20% (nhóm hộ khá) và 10% (nhóm hộ trung bình). Riêng nhóm hộ hạn chế về tiềm lực phải tạo điều kiện tiếp cận sản xuất ứng dụng công nghệ cao theo tiêu chuẩn VietGAP, gắn với xây dựng các mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác liên kết sản xuất theo chuỗi sản phẩm hợp đồng tiêu thụ ổn định. Phấn đấu thu nhập bình quân của 4 nhóm hộ từ thấp đến cao lần lượt là 120 triệu đồng, 120- 300 triệu đồng, 300- 550 triệu đồng và hơn 550 triệu đồng/hộ/năm.
Khi đạt các mức thu nhập kinh tế vườn vừa nêu đến năm 2020, tỷ lệ hộ hạn chế về tiềm lực giảm xuống còn 18%; nâng số hộ trung bình lên 53%; số hộ khá lên 22% và số hộ giàu tăng lên 7%. Từ đó nâng thu nhập bình quân trên một đơn vị diện tích canh tác ở Bảo Lâm đạt 145 triệu đồng/ha/năm vào năm 2020 và 175 triệu đồng/ha/năm vào năm 2025.
Văn Việt
Thực hiện Tiểu dự án 2, Dự án 3, Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030 (Chương trình MTQG 1719) về phát triển vùng trồng dược liệu quý theo chuỗi giá trị, thúc đẩy khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp và thu hút đầu tư vùng đồng bào DTTS&MN, huyện Kỳ Sơn (Nghệ An) kỳ vọng sẽ mở ra cơ hội việc làm, tăng thu nhập, góp phần nâng cao mức sống, xóa đói giảm nghèo cho bà con người DTTS.
Trong khuôn khổ Dự án “Tuyên truyền, vận động nông dân xử lý rác thải tại Việt Nam, góp phần vào nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính của cộng đồng quốc tế” giai đoạn 2022 - 2024". Hôm nay (23/10), 36 hội viên Hội Nông dân huyện Bảo Yên (Lào Cai) đã đi tham quan chia sẻ kinh nghiệm mô hình xử lý rác thải hữu cơ, nuôi giun (trùn) quế.