Phát triển kinh tế trang trại là hướng đi đúng của sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung nhằm tăng năng suất, góp phần nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân, thực hiện tốt mục tiêu giảm nghèo ở nông thôn nói riêng và cho toàn xã hội nói chung.
Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, kinh tế trang trại chính là cơ sở khơi dậy tiềm năng trong dân cư để chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sản xuất hàng hóa, thúc đẩy áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho nông dân, góp phần tạo ra các vùng sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp hàng hóa tập trung, làm tăng khối lượng và giá trị hàng hóa, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Chìa khóa mở ra nhiều cơ hội làm giàu cho nông dân
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, cả nước hiện nay có hơn 29.853 trang trại, trong đó có 7.641 trang trại trồng trọt; 14.551 trang trại chăn nuôi; 4.241 trang trại thủy sản; 3.276 trang trại tổng hợp và 144 trang trại lâm nghiệp. Các mô hình trang trại được phân bố đều khắp trong các vùng cả nước.
Hiện nay, hình thức kinh tế trang trại đang tăng nhanh về số lượng với nhiều thành phần kinh tế tham gia, song quy mô đất đai còn hạn hẹp, vốn đầu tư chủ yếu là vốn tự có và vốn vay của cộng đồng, nguồn vốn vay tín dụng ngân hàng còn chiếm tỉ trọng thấp. Vốn bình quân của một trang trại khoảng 1,3 tỷ đồng và giá trị nông sản hàng hóa bình quân một trang trại đạt khoảng 1,5 tỷ đồng/năm.
Lao động của các trang trại chủ yếu là lao động gia đình, bao gồm cả chủ hộ trực tiếp tham gia sản xuất (chiếm trên 70%). Tổng diện tích đất trang trại khoảng 133.826 ha, so với diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng trong cả nước chiếm 0,6%. Bình quân một trang trại có 4,54 ha đất; trong đó trang trại trồng trọt là 89.432 ha, bình quân 10,2 ha/TT; chăn nuôi 16.777 ha, bình quân 1,5 ha/TT; trang trại tổng hợp 12.636 ha, bình quân 3,1 ha/TT; lâm nghiệp 6.739 ha, bình quân 15,7 ha/TT; thủy sản 6.442 ha, bình quân 1,2 ha/TT.
Thực tiễn những năm qua, kinh tế trang trại giống như chiếc chìa khóa mở ra nhiều cơ hội làm giàu cho nông dân, đã có nhiều mô hình trang trại phát huy được lợi thế vùng, địa phương hiệu quả cho thu nhập cao, doanh thu từ 1-3 tỷ đồng/năm, một số mô hình cho doanh thu từ 5-10 tỷ đồng/năm, một số trang trại trong bối cảnh hội nhập đã có sự gắn bó mật thiết với thị trường thông qua các hợp đồng sản xuất, tiêu thụ bền vững (sản xuất theo đơn đặt hàng; sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng; sản xuất theo số lượng nhất định, sản phẩm bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm).
Những mô hình trang trại này đã cho doanh thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Từ thực tiễn, khẳng định, kinh tế trang trại là một trong những loại hình mũi nhọn trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.
Những giải pháp cụ thể
Về đất đai, Chính phủ đã có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2000 về kinh tế trang trại, đây là hành lang pháp lý rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân phát triển kinh tế trang trại. Tuy nhiên, nhiều chính sách trong Nghị quyết dành cho kinh tế trang trại không còn phù hợp nữa như: đất sử dụng cho kinh tế trang trại được hưởng chính sách ưu tiên, nhưng không có quy định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, điều này không những làm hạn chế sự năng động trong hoạt động sản xuất mà còn khó khăn cho chủ trang trại. Có rất nhiều quy định nằm trong nhiều văn bản khác nhau, chưa kể đến việc tùy theo điều kiện của mình mà mỗi địa phương còn ban hành chính sách riêng để hỗ trợ khuyến khích trang trại phát triển. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh việc sử dụng đất đai trong các trang trại theo hướng tăng quy mô bằng cách khuyến khích tích tụ tập trung ruộng đất và liên kết trong sản xuất…
Về chính sách tín dụng hỗ trợ cho kinh tế trang trại, Nhà nước đã ban hành nhiều nhưng nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, chưa có một văn bản mang tính hệ thống tích hợp tất cả các chính sách đó, nhiều quy định còn chưa rõ. Đó là những bất cập cần được nghiên cứu để hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển. Hiện nay, Chính phủ đã có Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015, theo Nghị định thì chủ trang trại hoạt động trên địa bàn nông thôn hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp được tổ chức tín dụng cho vay vốn. Đối tượng cho vay để sản xuất nông nghiệp được mở rộng, hình thức cho vay phong phú và thời hạn cho vay cũng có nhiều thay đổi; tuy nhiên, để biết được những quy định này thì chỉ có lĩnh vực chuyên ngành, đối tượng trang trại rất khó tiếp cận...
Xây dựng các mô hình kinh tế trong nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tùy theo điều kiện tự nhiên, kỹ thuật, địa hình canh tác khác nhau đã có các mô hình khác nhau. Xây dựng các mô hình điểm về sản xuất, chế biến nông sản thực phẩm an toàn là một giải pháp có tính đột phá và bền vững để quản lý tốt chất lượng, an toàn thực phẩm, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng; đồng thời là cơ sở để liên kết các hộ sản xuất nhỏ lẻ thành tổ hợp tác sản xuất kinh doanh; sản phẩm đưa ra thị trường được kiểm soát, được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
Thực tiễn có thể áp dụng mô hình khác nhau như: đối với mô hình trồng trọt thực hiện theo tiêu chuẩn VietGAP, sản phẩm hữu cơ (5 không: không bón phân hóa học, không hóa chất bảo quản, không chất kích thích tăng trưởng, không sử dụng thuốc diệt cỏ, không biến đổi gen).
Đối với mô hình chăn nuôi gia súc tiêu chuẩn thực hiện (4 không – 2 sạch: không chất tạo nạc, không thuốc tăng trọng, không lạm dụng kháng sinh, không sử dụng chất cấm; và sạch vật nuôi, sạch chuồng trại).
Đối với mô hình chăn nuôi gia cầm theo hướng an toàn sinh học cần thực hiện (3 không – 2 sạch: không thuốc tăng trọng, không lạm dụng kháng sinh, không sử dụng chất cấm khác; và sạch vật nuôi, sạch chuồng trại)…
Tập trung nguồn lực khoa học – công nghệ cho việc phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa: Yếu tố khoa học công nghệ là chìa khóa, là động lực yêu cầu tất yếu để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch là hướng đi bền vững và cũng là hướng đầu tư rất tốt cho phát triển kinh tế; Vì vậy, cần tập trung nguồn lực và tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất thông qua công tác khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư; tăng cường công nghệ chế biến hiện đại, chế biến sâu, tận dụng chế biến các phế phụ phẩm trong sản xuất để tăng giá trị gia tăng cho nông sản. Chú trọng tạo ra những sản phẩm nông nghiệp sạch, nông sản hữu cơ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đạt tiêu chuẩn VietGAP để tăng sức cạnh tranh, chủ động hội nhập.
Tăng cường xúc tiến thương mại, phát triển thị trường nông sản: Ngành nông nghiệp đang chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp; Vì vậy, cần thiết phải đưa vào nội dung về phát triển thị trường, bởi thị trường sẽ khơi thông được đầu sản xuất; đồng thời ngành nông nghiệp phải hỗ trợ, định hướng, đào tạo để nông dân chủ động nắm bắt cơ hội và thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường, trước mắt là xây dựng và triển khai kế hoạch đăng ký mã vùng trồng, làm nhãn hiệu, tem truy xuất nguồn gốc nông sản.
Đối với thị trường Trung Quốc, đây là thị trường xuất khẩu chính của nông sản Việt Nam, nhưng nay Trung Quốc siết chặt quy định nhập khẩu với trái cây Việt Nam qua cả kênh chính thức và các kênh khác như chủ hàng… đồng thời yêu cầu sản phẩm phải được cấp mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói; trước mắt có vẻ khó khăn với doanh nghiệp, nhưng về lâu dài sẽ đem lại những thay đổi tích cực cho ngành sản xuất rau quả; Đòi hỏi từ doanh nghiệp, hợp tác xã đến người nông dân sẽ phải thay đổi quan điểm và phương thức sản xuất nâng cao chất lượng, quan tâm hơn tới việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, quy trình canh tác, mẫu mã sản phẩm…
Xây dựng thương hiệu nông sản chủ lực: Hiện nay, nông nghiệp Việt Nam có 10 sản phẩm nông lâm thủy sản xuất khẩu chính, có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Tuy nhiên, 90% nông sản vẫn xuất khẩu dưới dạng thô, kim ngạch còn thấp do giá xuất khẩu thấp hơn các sản phẩm cùng loại của nhiều nước. Chúng ta vẫn còn khoảng 80% lượng nông sản chưa xây dựng được thương hiệu. Đây là một bất lợi lớn, khiến sức cạnh tranh của các loại nông sản Việt Nam trên thị trường còn yếu và chịu nhiều thua thiệt. Các trang trại, doanh nghiệp cần sớm triển khai xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản của mình khi đáp ứng được các yếu tố chính như: được sản xuất trên quy mô lớn với mức độ cơ giới hóa cao, có khối lượng và giá trị tiêu thụ lớn, chất lượng đồng đều, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giá bán cạnh tranh, có khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn trong và ngoài nước.
Việt Nam là một nước nông nghiệp mạnh trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, để phát triển kinh tế trang trại, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, Chính phủ cần hỗ trợ mạnh hơn nữa về chính sách đất đai, tín dụng, khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư cơ sở hạ tầng nông nghiệp, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu các sản phẩm chủ lực; tăng cường sự liên kết giữa các thành phần kinh tế, lĩnh vực kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
TS. Nguyễn Duy Lượng (Phó chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam)
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.