Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ hai, ngày 25 tháng 11 năm 2024  
Thứ sáu, ngày 22 tháng 4 năm 2016 | 1:5

Cà phê không đỏ đất

Gia đình ông Phạm Văn Hoán ở thị trấn Nam Ban (Lâm Hà - Lâm Đồng) đã và đang thực hành biện pháp canh tác cà phê hạn chế rủi ro do biến đổi khí hậu gây ra. Đặc biệt, dưới mỗi hàng cây cà phê đều không làm sạch cỏ, đỏ đất, nhằm giữ độ ẩm và tránh xói mòn.

Những luống càphê thích ứng với biến đổi khí hậu của gia đình ông Phạm Văn Hoán ở thị trấn Nam Ban, Lâm Hà.

“Đổi màu đất” bằng lá cây

Giữa tháng 4/2016, vùng nông nghiệp Nam Ban đang gồng mình trong cơn khát nhưng vườn cà phê gần 1ha của ông Hoán vẫn xanh mướt, từng chùm trái đậu san sát trên cành. Vườn cà phê trải dài theo địa hình thoai thoải, phân bổ thành 5 lô kết nối với nhau bằng đường đất giao thông nội bộ rộng khoảng 1m, thuận lợi cho xe máy vào - ra chăm bón mỗi ngày. Trong vườn có hai màu đất tương phản. Màu nâu đỏ bazan “nguyên bản” của  đường đi và màu nâu đen “trải thảm” dưới tán cây cà phê. Tôi thắc mắc trước “hiện tượng” này, ông Hoán chia sẻ: “Gia đình tôi được dự án biến đổi khí hậu Việt Nam chọn sản xuất cà phê theo mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu. Đến nay, đã qua hơn 2 năm thực hành đầy đủ theo quy trình của dự án, tôi thấy mô hình mang lại hiệu quả nhiều mặt. Thay vì diệt cỏ dại bằng thuốc hóa học cực mạnh hoặc bằng máy cày, máy băm như trước thì hàng ngày, gia đình tôi gom lá khô rơi tự nhiên để trải sắp lớp trên từng luống đất bám rễ cây cà phê. Tầng trên cao nhất có tán cây muồng, các loại cây ăn quả, cây tiêu… che mưa che nắng cho cà phê. Nhờ vậy, dù đang trong mùa hạn khắc nghiệt nhất từ trước đến nay nhưng vườn cà phê của gia đình tôi không hề bị khô cháy; còn những tháng mùa mưa thì gần như mặt đất không bị rửa trôi, xói mòn”.

Hiện, vườn cà phê của ông Hoán đã bước sang năm tuổi thứ 13, tất cả đều trồng cùng giống cà phê chè Catimor, mật độ trung bình 850 cây/ha. Tuân thủ kỹ thuật do dự án chuyển giao, bên cạnh việc “đổi màu đất” bằng cách thường xuyên phủ thực bì lá khô, cứ sau một vụ thu hoạch, ông Hoán lại tiến hành tỉa cành, tạo tán thông thoáng, giữ chiều cao trung bình của cây cà phê khoảng 1,2m. Những cành nhánh phát triển yếu ớt, ra hoa, đậu trái năng suất thấp của mùa trước đều nhanh chóng chặt bỏ, dành dinh dưỡng để nuôi những cành nhánh phát triển khỏe mạnh hơn. Tiếp theo, dùng cuốc “khơi” hết lớp thực bì bên trên rồi đào thành đường rãnh sâu dưới mặt đất khoảng 20cm, sau đó rải đều phân bón xuống trước khi san lấp lại bằng phẳng như nguyên trạng ban đầu. Sau đó, bơm nước từ giếng khoan, tưới trực tiếp lên luống cây, nhằm hòa tan phân bón ngấm vào toàn bộ rễ, giúp cà phê nở hoa đều và đậu trái đồng loạt. Trong 2 tháng mùa khô vừa qua, ông Hoán chỉ tưới 2 lần cho vườn cà phê, tổng lượng nước khoảng 100 lít/cây. Trong khi đó, những hộ nông dân canh tác theo biện pháp thông thường (không trồng cây che bóng, dùng thuốc diệt sạch cỏ, giữ nguyên màu đất đỏ) phải tưới lượng nước nhiều hơn vườn của ông Hoán gấp 4 lần trở lên mới giữ cho cây cà phê không bị khô héo.  

Thích ứng với 2 tầng sinh thái

Cách đây 7- 8 năm, ông Hoán đã chủ động gieo ươm, trồng 40 cây bơ xen canh trên diện tích gần 1ha cà phê của mình. Sau này, khi thực hiện theo mô hình dự án biến đổi khí hậu Việt Nam, ông được hỗ trợ trồng thêm 60 cây bơ nữa. Mỗi cây bơ đang phát triển có chiều cao trung bình 3,5- 4m, phủ rộng cành tán che bóng, chắn gió cho cây cà phê. Hai năm qua, hơn 50% số cây bơ cho quả, mỗi năm mang lại thu nhập hàng chục triệu đồng. Riêng cây muồng, cây núc nác, ông trồng 30 cây với chiều cao đạt hơn 3m, cành tán “xòe” ra 4 bên rộng hơn 3m. Cây rừng này có “chức năng kép”. Đó là, vừa che bóng cho cà phê vừa làm trụ cho tiêu bám dây leo lên.

Như vậy, tính riêng hơn 2 năm thực hiện dự án, gia đình ông Hoán đã và đang cải tạo hoàn thành 2 tầng sinh thái giúp cây cà phê giảm thiểu thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra. Cụ thể là tầng cây ăn trái, cây rừng để che bóng, chắn gió phía trên cao; tầng phủ lá, tủ gốc cây bên dưới mặt đất. Kết quả tạo ra môi trường sinh thái phù hợp, giúp cây cà phê ngăn chặn đáng kể tác hại của sương muối, đề kháng hữu hiệu các loại bệnh “trầm kha” nhất như ve sầu, tuyến trùng phá hoại rễ; sâu đục thân… Ngoài ra, mô hình còn bổ sung dưỡng chất hữu cơ, tăng độ phì nhiêu cho đất, hàng năm tiết kiệm lượng phân bón, nước tưới đáng kể; giảm phát thải khí nhà kính vì hầu như không sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật nồng độ cao…

Đối chứng với sản lượng cà phê chè Catimor trước và sau khi thực hiện dự án thấy, năng suất cà phê đã tăng từ 17 tấn tươi/ha/năm lên khoảng 23- 24 tấn tươi/ha/năm. Tại hội thảo “Sản xuất cà phê thích ứng với biến đổi khí hậu” vừa tổ chức tại Đà Lạt, nông dân Phạm Văn Hoán được “đăng đàn” cho biết, vườn cà phê canh tác theo quy trình bền vững của ông đã tiếp đón khoảng 50 hộ gia đình nông dân trồng cà phê ở khu vực Nam Ban đến tham quan, tìm hiểu. Mỗi gia đình đang trồng từ 0,3- 2ha cà phê chè và cà phê vối các loại. Tại vườn mô hình, ông Hoán đã nhiệt tình giới thiệu, chuyển giao đến từng người sản xuất  về kỹ thuật mới kết hợp với kinh nghiệm thực tế của mình.

Hy vọng mô hình này sẽ mở ra hướng đi mới cho vùng cà phê Tây Nguyên trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày càng diễn biến phức tạp. 

Văn Việt

 

KTNT
Ý kiến bạn đọc
  • Thắp sáng niềm tin cho những cảnh đời lầm lỡ

    Thắp sáng niềm tin cho những cảnh đời lầm lỡ

    Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.

  • Tăng cường trao đổi hợp tác trong lĩnh vực phát triển tín dụng chính sách giữa Việt Nam và Cuba

    Tăng cường trao đổi hợp tác trong lĩnh vực phát triển tín dụng chính sách giữa Việt Nam và Cuba

    Hai bên thống nhất sẽ cùng nghiên cứu, tăng cường trao đổi hợp tác trong lĩnh vực phát triển tín dụng chính sách, góp phần vào sự phát triển của quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa ngành ngân hàng nói riêng và hợp tác truyền thống giữa Việt Nam và Cuba nói chung.

  • Hiệu quả từ chương trình giáo dục số cho các nhóm yếu thế

    Hiệu quả từ chương trình giáo dục số cho các nhóm yếu thế

    Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.

Top