Ngày 4/8, Hội thảo “Vai trò của tre nguyên liệu đối với sự phát triển của chuỗi giá trị sản phẩm tre Việt Nam” được tổ chức tại Hà Nội. Đây là hội thảo chuyên sâu đầu tiên của ngành hàng này.
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Trần Thanh Nam cho biết, tre là loài cây đã gắn liền với đời sống của người dân nông thôn Việt Nam từ ngàn đời. Tre xuất hiện trong văn hóa, đời sống và còn góp phần vào quá trình đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của người Việt.
“Theo thống kê, hiện nay cả nước có hơn 1,5 triệu hecta tre với hơn 200 giống khác nhau. Với sản lượng hơn 3 tỷ tấn mỗi năm, giá trị xuất khẩu của tre hiện nay đã đạt trên 300 triệu USD/năm, tới 100 quốc gia và vùng lãnh thổ”, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho biết thêm.
Hiện nay, tre là nguyên liệu quan trọng trong các chuỗi sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu cả trong nước lẫn xuất khẩu. Mặc dù có nhiều tiềm năng, nhưng lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và PTNT cũng thừa nhận ngành hàng tre đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Đó không chỉ là thách thức của thị trường, thách thức về biến đổi khí hậu mà còn thách thức lớn nhất về nhận thức về giá trị của loại cây này.
“Hiện nay, có hơn 600 làng nghề làm các sản phẩm từ tre. Với những chủ trương, chiến lược của Chính phủ đưa ra thời gian qua, chúng ta cần có giải pháp hỗ trợ, xây dựng các vùng nguyên liệu đặc biệt là gắn được người sản xuất với doanh nghiệp. Khi đó sẽ hình thành các chuỗi sản xuất để tạo ra giá trị cho cả nông dân và doanh nghiệp”, Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhấn mạnh.
Đặc biệt, ông Thứ trưởng cũng lưu ý về việc phát triển các ngành nghề gắn với nguyên liệu từ cây tre: “Ngoài cung cấp cho các nhà máy, cần xây dựng hệ thống làng nghề, HTX đồ thủ công mỹ nghệ từ tre để phát triển kinh tế ở vùng nông thôn”.
Một vấn đề nữa mà ngành sản xuất sản phẩm từ tre đang gặp phải là về cơ chế, chính sách, nhằm giải quyết vấn đề này, ông Trần Thanh Nam khẳng định, Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để rà soát hệ thống chính sách trước khi có những triển khai cụ thể, tạo điều kiện cho ngành hàng tre phát triển.
Để cây tre có thể phát triển xứng tầm với tiềm năng đó là sự vào cuộc của địa phương. Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam: “Các địa phương cần có sự quan tâm, hỗ trợ xây dựng các HTX từ đó nhân rộng mô hình hiệu quả cho các sản phẩm từ tre”.
Tổng quan về cây tre Việt Nam, theo bà Nguyễn Thị Hoàng Yến, Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và PTNT), hiện tổng diện tích tre Việt Nam khoảng 1.592.000ha, phân bố hầu hết tại các tỉnh trên cả nước, có 37/63 tỉnh có diện tích trên 10.000 ha.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp, ông Đỗ Quốc Thái, Chủ tịch Công ty Bamboo King Vina tại Thanh Hóa chia sẻ, dù diện tích tre của Việt Nam bằng khoảng 25% của Trung Quốc nhưng giá trị xuất khẩu còn kém xa: “Nếu Trung Quốc mỗi năm xuất khẩu được khoảng 50 tỷ USD thì ngành tre của chúng ta mới đạt mức 300 - 400 triệu USD. Từ thực tế này có thể nhận thấy, đây là ngành nghề rất tiềm năng, có thể vươn lên thành ngành hàng tỷ USD trong tương lai”.
Bên cạnh đó, ông Thái cũng nêu ra một số vướng mắc hiện nay với ngành sản xuất sản phẩm từ tre. Đầu tiên là chưa có quy chuẩn trong phát triển vùng nguyên liệu, sau đó là hạn chế trong công nghệ sản xuất và chưa hình thành được chuỗi kinh tế tuần hoàn.
Với mong muốn phát triển tre bền vững, lãnh đạo Bamboo King Vina cho rằng, trước mắt cần xây dựng quy chuẩn cho vùng nguyên liệu. Bên cạnh đó, với đặc thù về các sản phẩm lâm sản, ông Đỗ Quốc Thái nhấn mạnh việc xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa HTX, doanh nghiệp và người dân với sự hỗ trợ của chính quyền và tổ chức tài chính mới có thể phát huy được thế mạnh.
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.