Hướng đến phát triển bền vững, thủy sản Nghệ An cần vạch ra nhiệm vụ cho từng vùng để xây dựng lộ trình dài hơi với mục tiêu cụ thể cho sự phát triển.
Nhiều khó khăn, tồn tại, bất cập
Nghệ An là tỉnh ven biển thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, gồm 6 cửa lạch và có nhiều sông suối, hồ đập chứa nước phục vụ cho phát triển nuôi trồng thủy sản lớn. Trong đó, diện tích tiềm năng có thể đưa vào nuôi trồng thủy sản là 52.092 ha (nuôi ngọt: 46.920 ha; nuôi mặn, lợ: 3.872). Có 520 hồ thủy lợi, thủy điện với 9.350 ha… Đó là những yếu tố trời ban để Nghệ An tập trung phát triển thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Cũng từ lợi thế đó, Nghệ An đã từng bước gây dựng, hình thành vùng nuôi trồng thủy sản quy mô hàng chục ngàn hecta. Theo số liệu thống kê trong năm 2023 cho thấy, ngành thủy sản Nghệ An đạt được nhiều kết quả ấn tượng, một số chỉ tiêu trọng tâm đạt và vượt kế hoạch đề ra. Nghề nuôi trồng thuỷ sản, từ nuôi trồng nhỏ lẻ; đến nay nghề nuôi trồng đã áp dụng nhiều tiến bộ của khoa học công nghệ; mở rộng diện tích, đối tượng nên đã có sự phát triển vượt bậc (sản lượng nuôi trồng ước đạt 70.255 tấn, bằng 105% so với năm 2022; diện tích nuôi trồng ước đạt 23.700ha, gần bằng 109% năm 2022…).
Tuy nhiên, trên thực tế, thực sự băn khoăn khi hiệu quả sản xuất trong nuôi trồng chưa cao, thiếu tính bền vững, đặc biệt là nuôi tôm thương phẩm. Mặt khác, đối tượng nuôi nước ngọt chủ yếu là các loài cá truyền thống, trong khi các đối tượng nuôi mới cho giá trị kinh tế cao chưa được nhân rộng, chủ yếu manh nha ở phạm vi nhỏ.
Nhiều vướng mắc của nghề nuôi trồng thủy sản tại Nghệ An chưa được tháo gỡ.
Đáng chú ý, vùng ven biển (Hoàng Mai, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Cửa Lò) được quy hoạch để tập trung phát triển khai thác hải sản xa bờ, nuôi lồng trên biển, nuôi thâm canh, siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng nhằm đảm bảo cho công nghiệp chế biến. Thế nhưng, ngành nuôi trồng thủy sản phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của địa phương.
Theo đó, Chương trình phát triển kinh tế thủy sản giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến 2030 của Nghệ An định hướng từng bước mở rộng diện tích nuôi trồng tại những vùng nuôi đủ điều kiện, đồng thời đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm gắn với bảo vệ môi trường.
Mặt khác, sẽ tập trung sản xuất, ương dưỡng giống, nhuyễn thể, giống đặc sản và ứng dụng công nghệ để tạo ra con giống tăng trưởng nhanh, sạch bệnh, có sức đề kháng cao.
Tầm nhìn dài hạn mà Nghệ An vạch ra là hướng đi thực sự cấp thiết. Tuy nhiên, lý thuyết và thực tiễn là 2 phạm trù hoàn toàn khác nhau. Để tháo gỡ hàng loạt nút thắt tồn tại dai dẳng không đơn giản là chuyện có thể làm được chỉ trong một sớm, một chiều. Trong khi đó, hàng ngàn hộ nuôi trồng thủy sản trên địa bàn vẫn đang loay hoay, chưa biết xoay xở ra sao.
Nguyên nhân dẫn đến “sức ỳ”
Nhiều nguyên nhân dẫn đến “sức ỳ”, đó là giá vật tư đầu vào tăng cao, là môi trường nuôi ô nhiễm, dịch bệnh tràn lan… tổng hòa kéo theo tâm lý ái ngại đầu tư của số đông. Lúc này đây, để gắng gượng bám trụ với nghề không phải chuyện giản đơn, nhất là nuôi tôm, vốn dĩ ngốn tiền trăm bạc tỷ.
Ông Hồ Văn Thành vốn là thành viên của Công ty Trịnh Môn (Xã Quỳnh Bảng, Huyện Quỳnh Lưu), được phân công quán xuyên, theo dõi các vùng nuôi, đồng thời là người nuôi tôm thẻ chân trắng có tiếng của vùng này vẫn hết sức ái ngại với thực trạng hiện giờ, bởi lẽ chính ông cũng từng trải qua những biến cố trong ngành nuôi tôm.
Nhiều hộ nuôi tôm đang trải qua giai đoạn khó khăn.
Ông Thành chia sẻ: Một điều khiến người nuôi tôm hiện nay thua lỗ là giá cả đầu vào, đầu ra chênh lệch lại thêm kháng sinh để điều trị bệnh cho tôm. Rõ nhất là trước đây, tôm bán giá chỉ 90 – 100 nghìn/kg, nhưng tiền thức ăn chỉ hết khoảng 16 – 17 nghìn/kg, còn bây giờ, tôm lên giá được 120 – 130 nghìn/kg, nhưng giá tiền thức ăn cho tôm lại tăng lên đến 30 – 33 nghìn/kg (tăng giá gấp đôi mà tôm thì tăng ít). Hơn nữa, trước đây nuôi tôm hầu như không phải dùng đến thuốc chứ bây giờ đủ thứ thuốc mà vẫn khó thành công ở các vụ nuôi.
Mặt khác, nguồn nước, con giống, môi trường nuôi, những yếu tố sống còn đều cho thấy rủi ro nhất định. Diễn biến dịch bệnh những năm qua khiến các hộ nuôi quay cuồng ứng phó, lắm lúc chẳng biết đường nào mà lần. Mỗi mùa mỗi loại, hết bệnh này đến bệnh khác, gan tụy chưa xong thì EHB, hồng thân đã ập tới, chung quy rất gian nan.
Theo anh Trần Văn Giáp, phụ trách kỹ thuật cho đầm tôm của ông Nguyễn Văn Hải (SN 1977) ở xóm Khánh Hậu, xã Hưng Hòa (thành phố Vinh, Nghệ An) cho biết: Khi con tôm bị gan tụy, đường ruột, dù thiệt hại kinh tế nhưng còn cứu vãn được phần nào, chứ một khi mắc phải EHB – vi bào tử trùng sống kí sinh thì cơ bản vô phương cứu chữa, đặc biệt nếu phát tán vào thời điểm con tôm mới thả, sức đề kháng yếu.
Dịch bệnh tràn lan tất sẽ kéo theo nguy cơ thua lỗ triền miên, muốn “lật ngược thế cờ” đòi hỏi phải tất tả huy động, đổ dồn kinh phí nhiều hơn trước, phải mua con giống với giá đắt đỏ hơn, phải thường xuyên thuê mướn nhân công cải tạo, theo dõi ao đầm, kết hợp lắng, lọc nước qua nhiều bước… mỗi thứ một chút, tốn kém vô cùng, dù vậy không ai dám chắc sẽ thắng lợi toàn phần.
Nguồn nước, con giống, môi trường nuôi là những yếu tố sống còn đều cho thấy rủi ro nhất định
Trong năm 2023, cơ quan chuyên ngành của tỉnh Nghệ An đã thực hiện tổng cộng 10 đợt lấy mẫu quan trắc môi trường tại 9 vùng nuôi tôm, kết quả 7 mẫu dương tính mầm bệnh EHP, 1 mẫu chỉ tiêu độ mặn không đạt, bấy nhiêu thôi đã đủ khiến người nuôi lo ngay ngáy.
Ông Trần Xuân Học, Phó Giám đốc sở NN-PTNT Nghệ An khẳng định: Nghề nuôi trồng thủy sản nói chung và nghề nuôi tôm nói riêng đang đối mặt với nhiều thách thức. Do nhiều nguyên nhân kìm hãm, những năm qua kinh tế thủy sản của địa phương chưa phát triển như ý muốn, tổng quan còn tồn tại nhiều hạn chế chưa được tháo gỡ, điển hình như: Diện tích nuôi nhỏ lẻ, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp; hoạt động chế biến còn lạc hậu, manh mún, chưa nâng cao được giá trị sản phẩm; thị trường tiêu thụ chủ yếu là nội địa, chưa có nhiều thương hiệu truyền thống; cơ sở hạ tầng phục vụ nghề khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản chưa được đầu tư đúng mức…
Giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản
Để nâng tầm ngành nghề thủy sản theo hướng hiện đại, đáp ứng được nhu cầu đặt ra trong xu thế mới, Nghệ An đã chủ động xây dựng “Chương trình phát triển kinh tế thủy sản giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”, xem đây là nền móng để gỡ bỏ những nút thắt đeo đẳng suốt bấy lâu.
Để cụ thể hóa được mục tiêu đòi hỏi phải xây dựng lộ trình bài bản, trong đó mấu chốt là định hướng phát triển theo vùng kinh tế gắn với chuỗi giá trị từ người nuôi đến cơ sở chế biến, doanh nghiệp thương mại, cuối cùng thị trường tiêu thụ. Trên cơ sở này, vùng ven biển (thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, thị xã Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu, huyện Diễn Châu, huyện Nghi Lộc) sẽ tập trung phát triển khai thác hải sản xa bờ, nuôi lồng trên biển, nuôi thâm canh, siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng, tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Mô hình nuôi trong lồng tại lòng hồ thủy điện Bản Vẽ, Tương Dương.
Trong khi đó, vùng đồng bằng trung du (các huyện Yên Thành, Nghĩa Đàn, Đô Lương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Tân Kỳ và thị xã Thái Hòa) có nhiệm vụ chính là duy trì ổn định khai thác nội đồng, phát triển các hình thức nuôi thâm canh trong ao hồ nhỏ.
Về phần khu vực miền núi (gồm các huyện Thanh Chương, Con Cuông, Anh Sơn, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp), các huyện sẽ tập trung khai thác có hiệu quả diện tích mặt nước tại các hồ đập lớn, các hồ thủy điện, thủy lợi, sông suối dựa trên hình thức nuôi lồng, trong đó tập trung các đối tượng có giá trị kinh tế cao. Song song với đó, cần có phương án bảo vệ các loài cá bản địa, đặc hữu có lợi thế.
Mặt khác cần chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện tốt Kế hoạch hành động phát triển ngành tôm tỉnh Nghệ An đến năm 2025 và Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản đặc sản nội địa trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2020 -2025; Đẩy mạnh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, Quy chuẩn, Tiêu chuẩn để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm gắn với bảo vệ môi trường.
Không sử dụng kháng sinh, hạn chế hoá chất ở tất cả các phương thức nuôi và các khâu trong chuỗi sản xuất, lưu thông sản phẩm; Tập trung hướng dẫn các địa phương chỉ đạo các cá nhân/tổ chức có liên quan thực hiện đăng ký nuôi trồng thủy sản lồng bè, đối tượng thủy sản nuôi chủ lực; Đẩy mạnh công tác kiểm tra chất lượng thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản trong sản xuất, lưu thông trên địa bàn tỉnh; Kiểm tra điều kiện các cơ cở mua bán và nhập khẩu thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản; Phối hợp với các cơ quan chức năng kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm về hoạt động sản xuất, mua bán thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản; Thực hiện việc giám sát nhập khẩu, khảo nghiêm thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý mối trường nuôi trồng thủy sản trên địa bàn theo quy định.
Chủ trì và phối hợp với các đơn vị Tổng cục Thủy sản thực hiện hoạt động quan trắc cảnh báo môi trường tại các vùng nuôi trọng điểm. Kết quả kiểm tra thông báo kịp thời đến các vùng nuôi, các hộ nuôi trồng trên địa bàn tỉnh để có biện pháp quản lý chặt chẽ nguồn nước đưa vào sản xuất nhằm hạn chế dịch bệnh lây lan.
Phát triển sản xuất, ươm dưỡng giống tôm, cá ứng dụng công nghệ cao tạo ra con giống tăng trưởng nhanh, sạch bệnh và sức chống chịu cao; triển khai chuyển giao công nghệ tiến tiến sản xuất, ương dưỡng giống các đối tượng thủy sản đặc sản như: lăng, leo, chình, trắm đen, vược, lươn...
Để nâng cao chất lượng sản phẩm, cần một nuôi trường nuôi tốt.
Cùng với đó, tổ chức, phát triển các hình thức liên kết sản xuất theo chuỗi, gắn với tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm, thân thiện môi trường; phát triển nuôi tôm nước lợ ứng dụng các công nghệ sinh học, công nghệ mới, quy trình nuôi nhiều giai đoạn, nuôi tuần hoàn, tiết kiệm năng lượng; triển khai nuôi cá nước ngọt áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, quy phạm, quy chuẩn kỹ thuật đảm bảo an toàn thực phẩm gắn với bảo vệ môi trường.
Xây dựng các khu công nghiệp chế biến thủy sản, kêu gọi, thu hút nhà đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến có quy mô lớn với công nghệ, thiết bị chế biến hiện đại, đảm bảo an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường; xây dựng, phát huy năng lực các khu chế biến thủy sản tập trung; khuyến khích, thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào khu chế biến tập trung; đổi mới công nghệ, phát triển các sản phẩm mới, sản phẩm có giá trị gia tăng cao có nguồn gốc từ nguyên liệu, phụ phẩm thủy sản sẵn có trên địa bàn tỉnh.
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.
Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…