Hầu hết doanh nghiệp chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn để xuất khẩu viên nén gỗ vào EU, bên cạnh đó, nguồn nguyên liệu hạn chế nhưng doanh nghiệp đổ xô đầu tư sản xuất nên khó chú trọng chất lượng.
Trái ngược với sự ảm đạm về xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ, xuất khẩu viên nén gỗ - mặt hàng mới nổi của ngành chế biến, xuất khẩu gỗ Việt Nam - đang có tốc độ tăng trưởng mạnh, góp phần quan trọng vào những thiếu hụt trong tăng trưởng xuất khẩu lâm sản.
Chế biến nguyên liệu dăm gỗ xuất khẩu tại nhà máy ở tỉnh Phú Yên với sản lượng trên 100.000 tấn/năm. Ảnh minh họa. (Ảnh: TTXVN)
Với sự tăng trưởng liên tục, viên nén gỗ có tiềm năng sẽ lọt vào nhóm các mặt hàng nông, lâm sản có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Đứng trước cơ hội lớn trong việc phát triển xuất khẩu, nhưng ngành hàng này vẫn chưa có những "điểm tựa" cốt lõi để vươn xa.
Nhu cầu sử dụng viên nén gỗ trên thị trường thế giới đang tăng mạnh. Đặc biệt, gần đây do cuộc xung đột Nga-Ukraine càng khiến các quốc gia khu vực EU có nhu cầu viên nén gỗ mạnh mẽ.
Cùng với xu hướng sử dụng nhiên liệu sạch, những cam kết giảm phát thải của các quốc gia tại COP 26, viên nén gỗ được kỳ vọng sẽ có bước ngoặt lớn.
Là doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu viên nén gỗ sang thị trường Hàn Quốc, ông Nguyễn Ba Duy, Phó giám đốc Công ty cổ phần Smart Wood Việt Nam chia sẻ, giá xuất khẩu viên nén gỗ tăng từ 1,4-1,6 lần so với năm ngoái.
Doanh nghiệp đang hướng tới xuất khẩu sang Nhật Bản. Dư địa xuất khẩu viên nén gỗ sang Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn còn rất lớn để doanh nghiệp Việt mở rộng.
Với thị trường EU, tiềm năng lớn nhưng để đảm bảo được yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu sang EU còn nhiều khó khăn. Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn này để xuất khẩu được sang EU.
Việt Nam có trên 300 cơ sở sản xuất viên nén gỗ, với khoảng 70-80% tập trung tại các khu vực phía Nam nơi có các trung tâm chế biến và tại khu vực Duyên hải miền Trung.
Xuất khẩu viên nén gỗ có mức tăng trưởng nhanh qua các năm. Năm 2021 kim ngạch xuất khẩu từ viên nén gỗ đạt 413 triệu USD.
Trong 6 tháng đầu 2022, viên nén gỗ đã đạt 354 triệu USD, tương đương hơn 85% kim ngạch của năm 2021. Dự kiến năm 2022, xuất khẩu viên nén gỗ có thể đạt khoảng 700 triệu USD.
Giá xuất khẩu viên nén gỗ cũng đã tăng rất mạnh, vọt lên bình quân gần 150 USD/tấn, tương đương tăng hơn 27% so với mức giá bình quân năm 2021. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu viên nén gỗ được các doanh nghiệp dự báo tiếp tục duy trì trong năm 2022.
Theo ông Tô Xuân Phúc, Tổ chức Forest Trends, cầu và giá viên nén gỗ tại EU tăng cao, tạo ra sức hút từ các nguồn cung lớn đặc biệt là từ Mỹ - quốc gia xuất khẩu viên nén gỗ lớn nhất trên thế giới.
Mặc dù Việt Nam không phải là quốc gia cung lớn cho các nước EU, cầu và giá viên nén gỗ tại thị trường quốc tế tăng cao tạo cơ hội cho ngành viên nén gỗ Việt Nam mở rộng sản xuất và xuất khẩu.
Gần 100% lượng viên nén gỗ của Việt Nam được xuất khẩu sang Nhật Bản và Hàn Quốc. Lượng xuất sang các thị trường còn lại không đáng kể. Đặc biệt, thị trường Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng rất cao ở mức trung bình trên 90% ở giai đoạn 2019-2021.
Năm 2022, dự kiến Nhật Bản sẽ tiếp tục gia tăng lượng nhập khẩu viên nén gỗ từ Việt Nam lên mức xấp xỉ với Hàn Quốc.
Nguồn nguyên liệu gỗ đầu vào có vai trò quan trọng nhất đối với sự lớn mạnh của ngành. Nguồn nguyên liệu hiện tại của ngành chủ yếu là các phế phụ phẩm từ các cơ sở chế biến gỗ như cành, ngọn, đầu mẩu gỗ vụn...
Với tình hình giá nguyên liệu gỗ rừng trồng đang tăng cao cộng với sự cạnh tranh nguyên liệu với ngành hàng dăm đang khiến ngành hàng này có sự cạnh tranh khốc liệt.
Các doanh nghiệp cần quan tâm tới việc tạo ra các vùng nguyên liệu của mình nhằm ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào. (Ảnh: Hồ Cầu/TTXVN).
Theo ông Tô Xuân Phúc, nhiều doanh nghiệp viên nén gỗ đặc biệt là các doanh nghiệp có các hợp đồng xuất khẩu đã ký kết từ trước và không có khả năng thay đổi giá xuất khẩu không cạnh tranh được với các doanh nghiệp dăm về nguyên liệu. Điều này dẫn tới một số doanh nghiệp viên nén gỗ phải hạn chế sản xuất.
Ông Tô Xuân Phúc cho rằng các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu viên nén gỗ, cũng như các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ, dăm, ván ép… có sử dụng gỗ rừng trồng cần quan tâm tới việc tạo ra các vùng nguyên liệu của mình nhằm ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào.
Việc tạo vùng nguyên liệu có thể thông qua hình thức các doanh nghiệp liên kết với các hộ dân, là những người có tiếp cận với nguồn quỹ đất trồng rừng. Khi chủ động được nguồn nguyên liệu thông qua các hình thức liên kết với các hộ trồng rừng và công ty lâm nghiệp sẽ giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, xu hướng tiêu thụ viên nén gỗ tại các thị trường lớn trên thế giới cho thấy trong tương lai các thị trường này sẽ đòi hỏi nguồn viên nén gỗ sử dụng gỗ nguyên liệu đầu vào có chứng chỉ bền vững. Do đó, việc tạo vùng nguyên liệu là rất cần thiết.
Ông Nguyễn Bá Duy cũng chia sẻ, khi doanh nghiệp chế biến gỗ hoạt động khó khăn thì việc đảm bảo nguyên liệu cho viên nén gỗ cũng gặp nhiều khó khăn. Hiện doanh nghiệp nào đảm bảo được nguồn nguyên liệu là thắng.
Giá viên nén gỗ đang ở mức khá tốt, nên đã có hiện tượng nhiều doanh nghiệp đổ xô đầu tư sản xuất.
Theo ông Nguyễn Bá Duy, đây chính là nguy cơ, rủi ro cho sự phát triển bền vững của ngành hàng. Bởi nguồn nguyên liệu cho sản phẩm này hiện chỉ có giới hạn nhất định. Nếu quá nhiều doanh nghiệp sản xuất dẫn đến thiếu nhiều nguyên liệu sẽ tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng, chất lượng sản phẩm sẽ không được chú trọng.
Trong khi đó, do mới phát triển trong vài năm gần đây và bắt nguồn hầu hết là doanh nghiệp nhỏ nên nguồn vốn của họ đều yếu. Việc đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu từ rừng trồng rất khó khăn.
Doanh nghiệp khó có thể thu mua từ trên 1 triệu chủ rừng những sản phẩm không đạt cho chế biến đồ gỗ. Do đó, các doanh nghiệp chủ yếu thu mua phế phẩm từ các doanh nghiệp chế biến gỗ.
Không chỉ nguyên liệu, một điều khiến các doanh nghiệp rất quan ngại là Chính phủ đang cân nhắc khả năng áp thuế xuất khẩu đối với mặt hàng viên nén gỗ (hiện là 0%). Lý do mà cơ quan tư vấn thuế đưa ra đề xuất áp thuế vì cho rằng viên nén gỗ không qua chế biến sâu nên cạnh tranh với sự phát triển trồng rừng gỗ lớn.
Ông Nguyễn Bá Duy cho rằng: "Việc tận dụng phế phẩm của ngành chế biến gỗ như mùn cưa, mẩu gỗ thừa… tận thu các bộ phận từ cây gỗ không đạt tiêu chuẩn để làm đồ gỗ rồi được băm, nghiền, sấy, nén, ép, bảo quản, tạo giá trị gia tăng từ sản phẩm thừa của ngành chế biến gỗ mà lại bị đánh thuế thì rất vô lý."
Ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho biết, nếu áp dụng thuế xuất khẩu viên nén gỗ tại thời điểm hiện tại không những có thể gây lãng phí đối với nguồn nguyên liệu này mà còn trực tiếp tác động tiêu cực tới các bên tham gia chuỗi sản xuất lâm sản. Đồng thời, giảm sức cạnh tranh sản phẩm viên nén gỗ Việt Nam trên thị trường xuất khẩu.
Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam kiến nghị Chính phủ không nên áp thuế xuất khẩu viên nén gỗ.
Hiệp hội cũng đề nghị Tổng cục Lâm nghiệp cần có những nghiên cứu ngành hàng này, xây dựng định hướng phát triển, từ nguyên liệu, sản xuất, xuất khẩu để phát triển bền vững, hài hòa giữa các khâu trong chuỗi sản xuất.
Theo TTXVN/Vietnam+
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.
Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…