Mỗi năm, vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch khoảng 24 triệu tấn lúa, tạo ra khoảng 27 triệu tấn rơm rạ, trong đó khoảng 70% rơm rạ được đốt trên đồng hoặc vùi vào đất gây lãng phí và tăng phát thải nhà kính. Trước thực trang trên vấn đề đặt ra là cần làm gì để tạo ra giá trị tăng thêm ngoài hạt gạo.
70% rơm rạ được đốt, vùi vào đất
Theo thông tin từ Cục Trồng trọt, mỗi năm, tại ĐBSCL thu hoạch khoảng 24 triệu tấn lúa, tạo ra khoảng 27 triệu tấn rơm rạ. Khoảng 70% rơm rạ được đốt trên đồng hoặc vùi vào đất. Việc đốt rơm rạ trên đồng ruộng đã gây mất chất dinh dưỡng có trong rơm rạ, đồng thời làm mất đa dạng sinh học và gây ô nhiễm môi trường. Còn việc vùi rơm rạ vào đất ruộng sẽ gây tăng phát thải khí mê-tan và khí thải nhà kính. Sự kiện trình diễn công nghệ, thiết bị thu gom và xử lý rơm rạ diễn ra mới đây, giúp người trồng lúa trong vùng hiểu rõ hơn về giá trị của rơm - một phụ phẩm trước nay khiến nông dân rất lo lắng về cách giải quyết sau mỗi vụ lúa.
Hàng chục triệu tấn rơm rạ đang bị lãng phí ở ĐBSCL, nếu được thu gom, xử lý thành phân bón hữu cơ sẽ mang lại giá trị rất lớn và giảm ô nhiễm môi trường, (Ảnh Hoàng Vũ).
Cho biết thêm về vấn đề này, ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết, Việt Nam sản xuất khoảng 43 triệu tấn lúa mỗi năm với lượng rơm rạ phát sinh khoảng 47 triệu tấn. Trong đó, có khoảng 24 triệu tấn lúa được sản xuất từ khu vực ĐBSCL, phát sinh khoảng 26-27 triệu tấn rơm rạ. Điều tra gần đây của Trường Đại học Cần Thơ cho thấy có khoảng 70% lượng rơm rạ được xử lý bằng cách đốt trên đồng và vùi vào đất, 30% được thu gom sử dụng.
Trong 30% lượng rơm rạ được thu gom sử dụng, có khoảng 30% dùng cho mục đích trồng nấm rơm; 35% sử dụng phủ gốc cây trồng và đệm lót để vận chuyển cây ăn trái; 25% phục vụ chăn nuôi gia súc và 10% được sử dụng vào các mục đích khác. Việc đốt rơm trên đồng ruộng gây lãng phí tài nguyên, dinh dưỡng, ô nhiễm môi trường, làm giảm đa dạng sinh học và biến đổi thành phần cơ giới của đất. Trong khi đó, việc vùi rơm rạ vào đất có thể giải quyết được vấn đề về dinh dưỡng nhưng có thể chưa giải quyết được vấn đề ngộ độc hữu cơ, làm tăng phát thải khí nhà kính.
Ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT cho biết, tập quán canh tác của nông dân là sau khi thu hoạch lúa, lượng rơm rạ ngoài đồng được xử lý bằng cách đốt bỏ, nhưng việc này đã tạo ra một lượng phát thải rất lớn. Các đơn vị của chúng tôi nghiên cứu, với 40 triệu tấn rơm rạ khi đốt sẽ phát thải ra môi trường khoảng 50 triệu tấn khí thải.
HIện nay, sau khi thu hoạch lúa, tình trạng nông dân miền Tây đốt rơm trên đồng vẫn còn khá phổ biến.
Ông Cao Đức Phát, Chủ tịch Hội đồng quản lý Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) cho biết, cùng với lượng lúa được sản xuất hàng năm khoảng 43 triệu tấn thì lượng rơm rạ phát sinh cũng khá nhiều. Tuy nhiên, lượng sinh khối này chưa được sử dụng tốt, đang gây ra một số tác hại về môi trường. Trên đường di chuyển từ Cần Thơ xuống Hậu Giang (quốc lộ 61C) ông đã chứng kiến việc người dân đốt đồng gây ô nhiễm môi trường, mất chất dinh dưỡng và ảnh hưởng đến đa dạng sinh học. Sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam chiếm 13% tổng lượng phát thải khí nhà kính, trong đó, ngành hàng lúa gạo chiếm khoảng 30% lượng phát thải của ngành nông nghiệp.
Tăng thêm giá trị ngoài hạt gạo
Từ thực trạng nêu trên, ông Phát cho rằng, cần có chính sách và hướng dẫn để quản lý rơm rạ ở ĐBSCL nói riêng và Việt Nam nói chung theo hướng nông nghiệp tuần hoàn và phát thải thấp để tăng thu nhập cho nông dân và các đối tác có liên quan, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam với thế giới trong giảm phát thải khí nhà kính.
Ông Phát cho biết, thời gian gần đây, IRRI đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và PTNT, các địa phương và đối tác tư nhân thực hiện phân tích chuỗi giá trị để xây dựng mô hình sản xuất, kinh doanh lúa chất lượng cao phát thải thấp, trong đó, quan tâm đến khâu quản lý rơm rạ. Các hoạt động này của IRRI nhằm tiếp tục hỗ trợ ngành nông nghiệp thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành lúa gạo theo hướng nâng cao giá trị, phát triển bền vững, đặc biệt, ủng hộ triển khai đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh ở ĐBSCL.
Máy trộn rơm để làm phân hữu cơ được trình diễn tại huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
Theo các chuyên gia nông nghiệp, cần phải có sự vào cuộc quyết liệt hơn nữa của các địa phương, tuyên truyền để người dân hiểu rõ về lợi ích của rơm và tác hại của sự lãng phí tài nguyên này. Đặc biệt, cần có sự trợ lực về chính sách hỗ trợ để hợp tác xã, doanh nghiệp mua máy móc, đầu tư dây chuyền xử lý rơm.
Ông Trương Cảnh Tuyên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang cho biết, để nâng cao chuỗi giá trị lúa gạo và giảm phát thải carbon, đòi hỏi chúng ta cần phải có các giải pháp đồng bộ trong quản lý và sử dụng rơm rạ nhằm xử lý triệt để vấn đề đốt rơm rạ trên đồng. Đây cũng là vấn đề được ngành nông nghiệp tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL quan tâm đặt ra khi tham gia góp ý xây dựng Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL.
Trong khi đó, ông Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL cho biết, từ những năm 2000 đơn vị đã đẩy mạnh nghiên cứu sử dụng rơm rạ và đã xây dựng xong quy trình chế biến rơm rạ thành phân bón. Chúng tôi đã sử dụng nguồn phân bón này để bón lại xuống đồng ruộng ở những vụ khác nhau để xem mức độ bền vững của mô hình. Việc sử dụng phân từ rơm rạ giúp năng suất ruộng lúa tăng 10-15% so với ruộng bón 100% NPK.
Theo ông Thạch, việc chế biến rơm rạ thành phân bón tuy mang lại hiệu quả nhưng chưa nâng cao được giá trị vì chu trình tuần hoàn còn thấp. Nên chăng, chúng ta sử dụng rơm rạ trồng nấm và sau khi thu hoạch nấm xong, thì dùng giá thể đó chế biến thành phân thì sẽ hiệu quả hơn vì chu trình tuần hoàn cao hơn, đem lại giá trị tốt hơn.
Tuy nhiên, vấn đề ông Thạch lo ngại, là lượng rơm rạ phát sinh ở những thời điểm thu hoạch gặp mưa bão sẽ rất khó khăn trong việc thu gom để sử dụng. Nếu phải có người xới lên, phơi khô rồi cuộn thì hiệu quả kinh tế của việc thu gom rơm rạ sẽ không cao. Trong khi đó, rơm rạ ở vụ hè thu là vụ bà con nông dân sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật, cho nên, nếu đem rơm rạ này trồng nấm thì năng suất sẽ thấp. Nên có quy trình quản lý từ vùng sản xuất an toàn, tiêu chuẩn rõ ràng để nông dân an tâm sử dụng rơm trồng nấm.
Phát triển trồng nấm từ rơm rạ, (Ảnh: Trung Chánh)
Liên quan đến việc thu gom rơm rạ, ông Nguyễn Hồng Thiện, Giám đốc Công ty TNHH MTV Tư Sang cho biết, hiện đơn vị và nhiều công ty khác đã có các dòng máy có thể cuộn được cả rơm ướt và rơm khô, giúp giải quyết tốt nguồn rơm phát sinh trong vụ hè thu với điều kiện mưa bão một cách dễ dàng. Còn về sản xuất phân bón từ rơm, trong quá trình phát triển mới, chúng tôi cũng đã bắt nhịp theo nhu cầu thị trường, chế tạo thành công máy trộn phân hữu cơ từ rơm. Sắp tới đơn vị sẽ liên kết với ngành nông nghiệp, hợp tác xã, viện, trường để nắm bắt được nhu cầu và công nghệ để phát triển sản phẩm phục vụ vấn đề sử dụng rơm rạ.
Để thực hiện được vấn đề nêu trên, ông Thiện đề xuất Chính phủ nên có chính sách hỗ trợ cho nhiều thành phần, bao gồm doanh nghiệp để nghiên cứu, đầu tư sản phẩm mới phục vụ nhu cầu của người dân; hỗ trợ hợp tác xã đầu tư thiết bị sản xuất…
Ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt cho rằng, chất lượng rơm rạ của những giống lúa khác nhau hay mô hình sản xuất khác nhau hay lúa hữu cơ, thì chất lượng rơm cũng khác nhau. Do đó, khi sử dụng rơm ở mô hình bình thường và rơm từ mô hình sản xuất an toàn thì giá trị là khác nhau. Có thể đưa ra tiêu chuẩn cho rơm.
Khi rơm rạ được thu gom và đưa ra khỏi đồng ruộng để phát triển những lĩnh vực khác có liên quan có thể giúp mang lại thu nhập cao hơn cho người nông dân, thay vì đốt bỏ hoặc vùi vào đất. Điều này, cũng giúp giải quyết được câu chuyện phát thải khí nhà kính để tiến tới thực hiện cam kết của Chính phủ về ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó có mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050.
Ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT nhấn mạnh, để nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo, bên cạnh nâng cao chất lượng, giá bán lúa gạo và giảm tổn thất sau thu hoạch, cần phải khai thác, phát huy tốt các nguồn phụ phẩm. Bộ Nông nghiệp và PTNT cũng xác định phụ phẩm nông nghiệp là tài nguyên cần phát huy để nâng cao giá trị, góp phần nâng cao thu nhập của nông dân.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.