Vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là địa bàn đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước với hạt nhân là Thủ đô Hà Nội; có vai trò là 1 trong 2 “đầu tàu” kinh tế, động lực phát triển hàng đầu của cả nước với 3 cực tăng trưởng là Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Đây cũng là vùng đi đầu trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST).
Kinh tế nông thôn lược ghi 3 tham luận của 3 tư lệnh ngành Khoa học - Công nghệ, Công Thương và Lao động - Thương binh và Xã hội tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế Vùng ĐBSH đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Để trở thành trung tâm KHCN, ĐMST hàng đầu
Bộ trưởng Bộ KHCN Huỳnh Thành Đạt cho biết, ĐBSH là vùng đi đầu trong nghiên cứu, ứng dụng KHCN và ĐMST. Toàn vùng có trên 500 tổ chức KHCN, 291 tổ chức nghiên cứu phát triển (R&D), có 14/17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia; tốc độ đổi mới công nghệ (giai đoạn 2016-2020) đạt 51,7%. Tỉ lệ đóng góp của KHCN (thông qua chỉ số TFP) vào tăng trưởng kinh tế vùng giai đoạn 2016-2020 đạt 48,1%; hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST phát triển mạnh mẽ trong đó hạt nhân là Thủ đô Hà Nội.
Thủ tướng Phạm Minh Chính xem trưng bày sản phẩm nông nghiệp, thủ công, mỹ nghệ của các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. Ảnh: Dương Giang-TTXVN
Hoạt động KHCN đã có tác động tích cực tới phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng an ninh của Vùng; thể hiện rõ vai trò đồng hành của KHCN trong sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Các địa phương đã xác định được danh mục sản phẩm chủ lực, sản phẩm có lợi thế, đặc thù để đề ra chương trình phát triển; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Nhiều dự án, đề án KHCN liên kết giữa doanh nghiệp với các tổ chức KHCN đã được triển khai. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng vào các dự án sản xuất công nghiệp hiện đại, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành công. Nhiều công nghệ hiện đại, tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là trong nông nghiệp được triển khai, ứng dụng, mang lại hiệu quả và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần phát triển KT-XH toàn vùng.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho rằng, tiềm lực KHCN của một số tổ chức KHCN do UBND các tỉnh, thành phố quản lý còn yếu (cơ sở vật chất, trang thiết bị vừa thiếu vừa lạc hậu; nhân lực yếu, trình độ chưa cao; chưa đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu về chuyển giao kỹ thuật). Đầu tư cho KHCN còn hạn chế; tỉ lệ chi cho KHCN chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của Vùng; chưa có nhiều sản phẩm khoa học và công nghệ mang tính đột phá được thương mại hóa, doanh nghiệp chưa trở thành trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia; trình độ công nghệ của các doanh nghiệp nội địa chủ yếu vẫn đang ở mức trung bình nên khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước chưa cao. Chưa đề xuất và thực hiện được các nhiệm vụ KHCN lớn để giải quyết các vấn đề liên tỉnh, liên vùng, việc liên kết hoạt động KHCN giữa các địa phương trong vùng cũng như ngoại vùng chưa thực sự chặt chẽ.
Để Vùng ĐBSH trở thành trung tâm KHCN, ĐMST hàng đầu cả nước, Bộ KHCN đề xuất: Về cơ chế chính sách, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về KHCN. Đổi mới toàn diện hoạt động quản lý, triển khai các nhiệm vụ KHCN các cấp theo hướng công khai, minh bạch, khách quan, đơn giản hóa thủ tục hành chính; chuyển đổi số quy trình quản lý, cơ sở dữ liệu các nguồn lực KHCN và ĐMST; đổi mới chế độ quản lý tài chính, thanh quyết toán, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc chuyển giao tài sản hình thành trong nhiệm vụ KHCN sử dụng vốn Nhà nước.
Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao khả năng tiếp cận thông tin công nghệ trong nước và quốc tế. Xây dựng, cung cấp các công cụ và dịch vụ phân tích thông tin sáng chế và dự báo xu hướng phát triển công nghệ để định hướng cho hoạt động KHCN và ĐMST.
Đồng thời, có chính sách khuyến khích doanh nghiệp trong nước liên doanh với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI). Thành lập các viện nghiên cứu bên cạnh các doanh nghiệp FDI để học hỏi…
Tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu
Để phát triển các ngành công nghiệp Vùng ĐBSH theo hướng hiện đại, cạnh tranh, giá trị gia tăng cao và tham gia sâu, toàn diện vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu thì công tác hoàn thiện thể chế hết sức quan trọng.
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, những nhiệm vụ trọng tâm cần giải quyết và các khâu đột phá của chính sách phát triển công nghiệp Vùng ĐBSCH cần khai thác và phát huy trên cơ sở thế mạnh về địa chính trị, địa kinh tế, điều kiện tự nhiên, các giá trị văn hoá, lịch sử để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là đất đai, nhân lực chất lượng cao, ứng dụng KHCN, ĐMST, phát triển kinh tế số, cải cách thủ tục hành chính, môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, trước hết, các địa phương trong Vùng cần tập trung quán triệt sâu sắc quan điểm, định hướng, giải pháp, nhiệm vụ trong các nghị quyết chuyên đề của Trung ương ban hành thời gian gần đây (Nghị quyết 23 về định hướng phát triển công nghiệp, Nghị quyết 29 về công nghiệp hóa - hiện đại hóa; Nghị quyết 15 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội; Nghị quyết 45 về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng) để lồng ghép, tích hợp những nhiệm vụ, giải pháp phát triển công nghiệp Vùng Đồng bằng sông Hồng theo Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển các ngành công nghiệp.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, năm 2022, Bộ Công Thương đã tập trung tiến hành các thủ tục nghiên cứu, đề xuất xây dựng dự án Luật Phát triển công nghiệp và hiện đang hoàn thiện theo ý kiến của các cơ quan Quốc hội để báo cáo Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung dự án Luật trong Chương trình, kế hoạch xây dựng luật giai đoạn 2023 - 2024 của Quốc hội, trong đó sẽ xác định nguyên tắc, tiêu chí lựa chọn một số ngành công nghiệp để ưu tiên phát triển theo hướng phải đáp ứng các nguyên tắc: Dựa trên kết quả phân tích, đánh giá khách quan lợi thế của từng vùng và địa phương; là ngành có khả năng tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; là ngành công nghiệp có ý nghĩa nền tảng, có tác động lan toả cao đến các ngành kinh tế khác; là ngành sử dụng các công nghệ sạch, thân thiện môi trường; là ngành có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao; tiếp tục rà soát để nâng cấp, hoàn thiện quy định của pháp luật về công nghiệp hỗ trợ.
Thứ ba, cụ thể hóa Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị về chính sách phân bố không gian và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp để sắp xếp, phân bố không gian phát triển công nghiệp Vùng ĐBSH theo nguyên tắc liên kết nội vùng và liên vùng đồng bộ với liên kết ngành công nghiệp trong Quy hoạch Vùng ĐBSH và các quy hoạch cấp tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, phù hợp với định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia, hệ thống quy hoạch ngành quốc gia, trong đó cần quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị trong Nghị quyết 30, đó là “Vùng ĐBSH là động lực phát triển hàng đầu để định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước”.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển công nghiệp Vùng theo hướng hiện đại, công nghệ cao, ít phát thải khí nhà kính, có khả năng cạnh tranh và giá trị gia tăng cao, tham gia sâu, toàn diện vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu.
Thứ năm, chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, nhân lực phục vụ phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, có thế mạnh của Vùng.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, phát triển chính phủ điện tử, xây dựng chính quyền số. Tập trung rà soát, cắt giảm mạnh mẽ các thủ tục, điều kiện đầu tư, kinh doanh không còn phù hợp.
Hình thành thị trường lao động theo hướng hiện đại, hội nhập
Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung cho biết, Vùng ĐBSH có quy mô lao động lớn nhất trong sáu vùng kinh tế với tổng lực lượng lao động là 11,44 triệu người, chiếm 22,64% lực lượng lao động cả nước năm 2021.Trong giai đoạn 2011-2021, tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ tăng từ 21,09% lên 36,96%; tỉ lệ lao động làm công hưởng lương tăng từ 38,8% lên 60,53%; tỉ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 37,68% (năm 2011) xuống còn gần 13,55% (năm 2021); tỉ lệ thất nghiệp và tỉ lệ thiếu việc làm rất thấp (tương ứng 1,97% và 1,48% năm 2021). Trong những năm qua, việc phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế trong vùng (riêng khu vực Vùng ĐBSH chiếm tới 33% số dự án và trên 30% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam) đã góp phần phát triển doanh nghiệp và tạo thêm hàng chục vạn việc làm cho người lao động trong vùng và các vùng lân cận, hình thành thị trường lao động có bước phát triển nhanh, tiếp cận theo hướng hiện đại, hội nhập.
Nuôi trồng thủy sản trên vinh Bái Tử Long. Ảnh: Báo Quảng Ninh
Trong giai đoạn 2021-2030, Vùng ĐBSH vẫn là thị trường có nguồn nhân lực dồi dào và quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của Vùng cần theo chiều sâu, trong đó tập trung phát triển công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn có giá trị kinh tế cao.
Theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, việc phát triển thị trường lao động gắn kết nhu cầu lao động của Vùng được xác định là nhiệm vụ căn cơ để phát triển việc làm thỏa đáng cho người lao động, góp phần tăng năng suất lao động và tạo lợi thế cạnh tranh trong hội nhập và phát triển của vùng.
Theo đó, trong thời gian tới, các địa phương của vùng cần tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thị trường lao động, nhất là phát triển nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế tri thức và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Vùng.
Đổi mới hệ thống GD&ĐT của Vùng theo hướng trang bị năng lực cho người học; tăng cường đào tạo gắn với doanh nghiệp, đào tạo tại doanh nghiệp cho người lao động. Xây dựng chính sách ưu tiên phát triển nhân lực có khả năng nắm giữ vị trí then chốt, đầu tàu dẫn dắt quá trình tăng trưởng và phát triển KTXH của Vùng; đảm bảo lao động có chuyên môn kỹ thuật cao cho các cụm, khu công nghiệp trọng yếu trên địa bàn các tỉnh của Vùng.
Hiện đại hóa, phát triển dịch vụ việc làm của Vùng ĐBSH, tăng cường kết nối, liên thông với thị trường lao động các vùng trên cả nước. Xây dựng Cổng thông tin thị trường lao động của Vùng, trong đó hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu về cung - cầu lao động thống nhất và liên kết giữa các địa phương trong Vùng. Tăng cường hiệu quả phân tích và dự báo thị trường lao động; nâng cao năng lực dự báo, áp dụng chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ cao.
Phát triển kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh
Đây là định hướng được nhấn mạnh trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế Vùng ĐBSH đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo đó, thúc đẩy các ngành kinh tế biển, nhất là du lịch, dịch vụ biển ở Quảng Ninh với khu du lịch trọng điểm quốc gia Hạ Long - Bái Tử Long - Vân Đồn trở thành trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của khu vực và thế giới; Thúc đẩy chuyển đổi xanh trong kinh tế hàng hải, công nghiệp ven biển, hình thành các trung tâm công nghiệp xanh thân thiện môi trường ven biển, hệ thống các cảng xanh, các ngành kinh tế biển mới.
Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm nuôi biển, gắn với Trung tâm nghề cá lớn Hải Phòng được đồng bộ trong hệ thống các cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá hoạt động trong ngư trường vịnh Bắc Bộ. Khuyến khích phát triển các mô hình gắn bảo vệ, bảo tồn với phát triển du lịch biển và nuôi trồng thủy áp dụng công nghệ mới, tiên tiến, năng suất cao, thân thiện môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh; phòng ngừa, kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường, xử lý các cơ sở ô nhiễm nghiêm trọng; thúc đẩy phát triển hạ tầng về môi trường, tái chế, xử lý chất thải, nước thải.
Đẩy mạnh chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, sử dụng hiệu quả tài nguyên, hướng tới đạt được mục tiêu kép về tăng trưởng kinh tế đồng thời giảm ô nhiễm, suy thoái môi trường. Khai thác tiềm năng lợi thế về năng lượng tái tạo. Tăng cường kết nối, quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất theo mô hình kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải. Thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ; tăngcường tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp. Quy hoạch đô thị hóa bền vững, phát triển đô thị gắn với phát triển hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường; chú trọng phát triển không gian xanh, công trình xanh, đô thị sinh thái, đô thị thông minh, chống chịu với biến đổi khí hậu.
Thiết nghĩ, để chủ trương đúng đắn đi vào thực tiễn, cần có các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, các định hướng, dự án ưu tiên với sự đầu tư dẫn dắt của Nhà nước, sự vào cuộc quyết liệt từ các địa phương,tinh thần hành động của cả hệ thống chính trị, sự sáng tạo, vai trò hạt nhân của cộng đồng doanh nghiệp, người dân. Các Bộ, ngành, địa phương cùng xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch hành động một cách đồng bộ; đặt quyết tâm cao cùng hệ thống chính trị hiện thực hóa các mục tiêu đề ra trong Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng ĐBSH.
Chính phủ đặt mục tiêu Vùng ĐBSH tăng trưởng GRDP bình quân khoảng 9%/năm đến năm 2030, tăng 1,06% so với giai đoạn 2005-2020 và tăng khoảng 3 lần so với năm GRDP năm 2020. |
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.