Theo quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản, mục tiêu đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có nghề cá phát triển bền vững, hiện đại, tương đương các nước có nghề cá phát triển trong khu vực.
Ngư dân các tàu cá ngừ đại dương tại Bình Định vận chuyển cá phục vụ nhu cầu chế biến xuất khẩu.
“Việt Nam có điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi, diện tích vùng biển rộng, các loài thủy sản phân bố đa dạng và phong phú. Đây là thế mạnh trong phát triển ngành kinh tế biển nói chung và kinh tế thủy sản nói riêng. Theo quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản, mục tiêu đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có nghề cá phát triển bền vững, hiện đại, tương đương các nước có nghề cá phát triển trong khu vực."
Đây là nhấn mạnh của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Phùng Đức Tiến tại Hội nghị Công bố Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, do Bộ Nông nghiệp và PTNT tổ chức sáng nay (ngày 31/5), tại Hà Nội.
Phát triển ngành kinh tế mũi nhọn
Theo Thứ trưởng, những năm qua, ngành kinh tế thủy sản đã có những bước phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đứng đầu về xuất khẩu thủy sản trên thế giới.
Trong giai đoạn năm 2010 - 2020, giá trị sản xuất ngành thủy sản tăng trưởng 5,2%/năm; thu nhập bình quân đầu người tăng 2,5 lần; kim ngạch xuất khẩu có tốc độ tăng trung bình đạt khoảng 6,1%/năm. Năm 2023 vừa qua, tổng sản lượng thủy sản đạt 9,269 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 9,2 tỷ USD, đưa Việt Nam lên vị trí thứ ba trên thế giới chỉ đứng sau Trung Quốc và Na Uy.
Kết quả này đã đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước, cải thiện sinh kế, ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm cho khoảng hơn 4 triệu người dân, đặc biệt là đối với cộng đồng dân cư sống phụ thuộc vào nguồn lợi thủy sản ở 28 tỉnh, thành phố ven biển.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Thứ trưởng cũng chỉ rõ những thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản. Đó là: Khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU); Sự suy giảm nguồn lợi thủy sản cả vùng biển và vùng nội địa do tình trạng khai thác quá mức cho phép; Cơ cấu nghề khai thác chưa phù hợp; số lượng tàu còn nhiều, đặc biệt tàu khai thác ở vùng biển ven bờ với ngư cụ gây hủy diệt nguồn lợi thủy sản, khai thác không theo mùa vụ.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh ngành kinh tế thủy sản đã có những bước phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Ngoài ra, tốn thất sau thu hoạch trong khai thác cao; trang thiết bị an toàn tàu cá chưa đảm bảo; Cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần nghề cá chưa đồng bộ; Tranh chấp chủ quyền trên vùng biển ảnh hưởng đến khai thác hải sản; Trữ lượng thủy sản nguồn lợi thủy sản và hệ sinh thái suy giảm.
Luật Thủy sản 2017 và các văn bản pháp luật liên quan đã xác định nuôi trồng và khai thác thủy sản là một trong 6 ngành kinh tế biển ưu tiên đột phá đến năm 2030. Công tác bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản bền vững, vì thế, có đóng góp quan trọng trong việc phát triển kinh tế biển bền vững.
"Việc Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định phê duyệt Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là cơ sở quan trọng để phân bổ lại không gian cho bảo tồn, bảo vệ, khai thác thủy sản phù hợp với khả năng cho phép của nguồn lợi, hệ sinh thái. Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản phải gắn với lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng và phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng vùng", Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Việt Nam trở thành quốc gia có nghề cá phát triển bền vững, hiện đại
Theo Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, quy hoạch đặt mục tiêu đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có nghề cá phát triển bền vững, hiện đại, tương đương với các nước có nghề cá phát triển trong khu vực và trên thế giới; đa dạng sinh học biển và các thủy vực nội địa được bảo tồn và phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao; góp phần bảo đảm an sinh xã hội; bảo vệ chủ quyền, an ninh, trật tự và lợi ích quốc gia trên sông, trên biển của Việt Nam.
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện quy hoạch này cũng như các quy hoạch khác của ngành đã được phê duyệt. Ông đề nghị các tỉnh thành tập trung rà soát, điều chỉnh và xây dựng quy hoạch, kế hoạch, các dự án sao cho thống nhất và đồng bộ, đồng thời cập nhật nội dung quy hoạch tỉnh và thành phố để đảm bảo tuân thủ các định hướng.
Hội nghị công bố Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021-2030.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, quy hoạch này là cơ sở quan trọng để phân bố lại không gian cho bảo tồn, bảo vệ và khai thác thủy sản phù hợp với khả năng của nguồn lợi và hệ sinh thái. Mục tiêu của quy hoạch là bảo vệ, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản trên các thủy vực, bảo tồn đa dạng sinh học biển, và thực hiện mục tiêu của Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quy hoạch cũng hướng tới phát triển khai thác thủy sản bền vững, có trách nhiệm, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai.
Ông Nguyễn Quang Hùng, Cục trưởng Cục Kiểm ngư, cung cấp thông tin chi tiết về quy hoạch. Mục tiêu đặt ra là thành lập và vận hành hiệu quả 27 khu bảo tồn biển với tổng diện tích bảo tồn khoảng 463.587 ha, chiếm khoảng 0,463% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia. Bên cạnh đó, 149 khu vực ở vùng biển và 119 khu vực nội địa sẽ được khoanh vùng để bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ khu vực tập trung sinh sản và các khu vực tập trung sinh sống của thủy sản non.
Về khai thác thủy sản, quy hoạch đề ra mục tiêu giảm tổng số tàu cá xuống còn tối đa khoảng 83.600 chiếc. Cơ cấu nghề khai thác thủy sản dự kiến như sau: nghề lưới kéo chiếm 10,0%, nghề lưới vây chiếm 6,1%, nghề lưới rê chiếm 40,3%, nghề câu chiếm 18,9%, nghề lưới chụp chiếm 3,0% và nghề lồng bẫy chiếm 2,9%. Quy hoạch này nhằm đảm bảo việc khai thác thủy sản được thực hiện một cách bền vững và hiệu quả, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản quốc gia.
Riêng về chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản, định hướng quy hoạch là giảm dần sản lượng thủy sản khai thác, khai thác có chọn lọc các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao; điều chỉnh số lượng tàu cá khai thác thủy sản, đặc biệt giảm tỷ trọng nghề lưới kéo trên biển; gắn phát triển sinh kế của cộng đồng ngư dân với phát triển nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái, nghề cá giải trí. Cùng với đó là củng cố, đổi mới các tổ, đội, hợp tác xã, nghiệp đoàn nghề cá; tổ chức sản xuất thủy sản khai thác theo chuỗi giá trị, chú trọng tăng về giá trị sản xuất.
Sớm ban hành danh mục khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn
Thời gian tới, cùng với việc triển khai Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến yêu cầu Cục Thủy sản, Cục Kiểm ngư phối hợp chặt chẽ với bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng thực hiện có hiệu quả Nghị định số 67/2014/NĐ-CP về phát triển thủy sản. Đồng thời, bố trí quỹ đất, ngân sách và huy động các nguồn lực xã hội để thực hiện quy hoạch.
Bộ Nông nghiệp và PTNT cam kết sớm ban hành danh mục khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn.
Ông cho rằng, bên cạnh việc tổ chức thực hiện, các cấp, các ngành liên quan cần tăng cường kiểm tra, đẩy mạnh truyền thông về quy hoạch, góp phần tiết giảm chi phí và áp lực cho ngân sách Nhà nước.
"Phát triển thủy sản bền vững, có trách nhiệm giúp Việt Nam hội nhập sâu, rộng với khu vực và quốc tế. Chúng ta cần nhìn rõ và đề ra giải pháp cho từng vấn đề cụ thể. Chỉ bàn làm, không bàn lùi, tránh bàn chung chung", lãnh đạo Bộ NN-PTNT nhấn mạnh.
Bộ Nông nghiệp và PTNT cam kết sớm ban hành danh mục khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn; đồng thời kểm tra, giám sát, đánh giá, rà soát, điều chỉnh quy hoạch theo quy định.
Ông Patrick Haverman, Phó Trưởng Đại diện Thường trú UNDP tại Việt Nam cho biết, tổng diện tích 27 khu bảo tồn biển trong quy hoạch mới chiếm tỷ lệ chưa đến 0,5% tổng diện tích mặt biển. Con số này còn tương đối thấp. Ông đề nghị Việt Nam bố trí nguồn lực để đẩy nhanh tỷ lệ này./.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.