ĐBSCL là vùng sản xuất và xuất khẩu nông sản trọng điểm của cả nước. Thế nhưng theo các chuyên gia, liên kết chuỗi giá trị ngành hàng nông sản hiện nay bộc lộ nhiều hạn chế, lỏng lẻo do chưa có sự hài hòa về lợi ích giữa các bên liên quan; tác động của biến đổi khí hậu; cạnh tranh ngày càng gay gắt...
Từ thực tế đó, vấn đề tìm ra các giải pháp để sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản của vùng thích ứng với bối cảnh mới, gia tăng lợi thế cạnh tranh là yêu cầu cấp bách.
Thiếu tính kết nối
Tại tọa đàm SDMD 2045 thường kỳ tháng 3-2023 với chủ đề “Công nghệ thực phẩm - Sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản vùng ĐBSCL” mới đây, GS. TS Hà Thanh Toàn, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ, Ban Chỉ đạo Chương trình Phát triển bền vững ĐBSCL tầm nhìn 2045 (SDMD 2045) nhận định, mặc dù có nhiều lợi thế, song hoạt động sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản vùng ĐBSCL đang đứng trước thách thức phải chuyển đổi để mở rộng, gia nhập thị trường. Trong khi đó, việc xây dựng, hình thành và phát triển các vùng sản xuất nông sản, thực phẩm an toàn, chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ còn chậm, chủ yếu là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Liên kết giữa nông dân, ngư dân với các cơ sở thu gom, sơ chế, chế biến và cơ sở kinh doanh trong xây dựng chuỗi chưa chặt chẽ hoặc mối liên kết không bền vững, chưa gắn kết được lợi ích và trách nhiệm của các bên liên quan với nhau…
Thu hoạch xoài phục vụ xuất khẩu tại xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ.
ĐBSCL đã hình thành đa dạng các liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông sản. Tuy nhiên, việc liên kết chủ yếu theo ngành, cụm ngành hàng chủ lực (thủy sản, lúa gạo, cây ăn trái, rau màu), hiệu quả không cao, thiếu tính bền vững, vẫn còn tình trạng “bẻ kèo” hợp đồng khi giá cả thị trường thay đổi. Ngoài ra, một hạn chế nữa trong sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL là luôn thiếu hụt nguồn cung ứng giống cây trồng chất lượng, thiếu năng lực kỹ thuật, quản lý của người nông dân, cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp chưa được đầu tư đồng bộ. Chế biến và gia công sản phẩm nông nghiệp là khâu yếu nhất. Các nhà máy chế biến chưa đáp ứng được nhu cầu của nguồn nguyên liệu đến từ nông dân, gây lãng phí và giảm giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Trong chuỗi giá trị nông sản, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khâu an toàn vệ sinh thực phẩm đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Mạnh Thắng, Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương, vấn đề quản lý an toàn thực phẩm hiện nay có nhiều đầu mối, chưa thống nhất trong xây dựng kế hoạch, cấp giấy, kiểm tra, thanh tra, giám sát; một số quy định về phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm còn chồng chéo, chưa rõ ràng… Hoạt động quản lý an toàn thực phẩm ở cấp xã, phường chưa thật sự được quan tâm đúng mức; đặc biệt là quản lý sử dụng hóa chất bị cấm trong chăn nuôi, trồng trọt, chế biến thực phẩm ở các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ; an toàn thực phẩm tại các chợ, vệ sinh thú y trong giết mổ… Ở một góc độ khác, mặc dù ĐBSCL có thế mạnh về nông sản nhưng hiện nay lại thiếu cơ sở dữ liệu dùng chung nên khó chủ động được đầu ra cung ứng cho thị trường và truy xuất nguồn gốc theo yêu cầu khách hàng trong nước và xuất khẩu.
Đồng bộ nhiều giải pháp
Đẩy mạnh liên kết vùng là câu chuyện cũ nhưng vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh hiện nay. Trong đó, vai trò “nhạc trưởng” của Cần Thơ trong vùng ĐBSCL đã được các cấp lãnh đạo Trung ương nhìn nhận. Từ đó, ban hành một số chính sách, giải pháp khẩn thiết nhằm thúc đẩy chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản cho vùng. Trong đó đáng chú ý là xúc tiến thành lập Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tại TP Cần Thơ. Ông Nguyễn Tấn Nhơn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ, cho biết: Trung tâm có diện tích 300ha, được chia thành 2 khu (khu 1 rộng 50ha tại quận Bình Thủy và khu 2 rộng 250ha tại huyện Cờ Đỏ). Để phát huy tốt hiệu quả, trung tâm này phải làm những dịch vụ “khác biệt” so với các địa phương khác trong vùng và trở thành “điểm đến đa dịch vụ” như hệ thống kho lạnh lớn, hiện đại, khép kín quy trình tiêu thụ nông sản; có dịch vụ logistics đường biển, đường hàng không để đáp ứng đa dạng nhu cầu của khách hàng...
Để nông sản đồng bằng mở rộng thị trường tiêu thụ, ông Nguyễn Mạnh Thắng, nhấn mạnh: Đáp ứng các yêu cầu của khu vực nhập khẩu, doanh nghiệp cần phải chủ động nắm bắt, cập nhật và có kế hoạch thích ứng với các quy định của nước nhập khẩu, đặc biệt là các quy định liên quan tới kiểm soát toàn chuỗi và truy xuất nguồn gốc. Khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu. Chủ động triển khai áp dụng các hệ thống quản lý tiêu chuẩn chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khỏe, môi trường; nghiên cứu và ứng dụng vào quá trình sản xuất các tiêu chuẩn kỹ thuật như ISO, 5S, JIT… nhằm chuẩn hóa đầu ra theo yêu cầu từ phía các nước nhập khẩu.
Ở kênh tiêu thụ nội địa, bà Võ Thị Bích Thủy, Phó Giám đốc Phòng Quản lý chất lượng Saigon Co.op, khẳng định: “Là siêu thị Việt của người Việt, Saigon Co.op luôn luôn tạo điều kiện đưa các sản phẩm Việt vào kinh doanh trong hệ thống; sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp và cam kết tiếp tục chủ động tham gia sâu vào quá trình thúc đẩy đổi mới, phát triển chuỗi giá trị sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường, góp phần chuyển đổi tư duy kinh tế nông nghiệp cho nông dân. Để làm được điều đó, Saigon Co.op mong muốn các nhà cung cấp tại khu vực ĐBSCL luôn duy trì ổn định chất lượng hàng hóa, liên tục cập nhật những hệ thống chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật hiện đại tiên tiến trong và ngoài nước. Đồng thời, tiếp cận các quy trình nuôi trồng, xử lý sau thu hoạch ứng dụng công nghệ cao, hiện đại nhằm tăng giá trị hàng nông sản Việt; thực hiện các chương trình quảng bá hình ảnh, chất lượng sản phẩm nông nghiệp đặc sắc, uy tín ra các thị trường trong và ngoài nước để thúc đẩy hàng nông nghiệp Việt vươn ra thị trường thế giới”.
Nhiều ý kiến cho rằng, yếu tố con người đóng vai trò quan trọng trong phát triển và nâng chất chuỗi giá trị nông sản. Với vị trí trung tâm, nơi tập trung đông đảo viện, trường, TP Cần Thơ cần phát huy vai trò đầu tàu, dẫn dắt các địa phương trong vùng trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển công nghệ và chuỗi sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông thủy sản của vùng. Bên cạnh việc chung tay vào cuộc của các viện, trường trong công tác đào tạo nguồn nhân lực, các địa phương cũng cần xây dựng cơ chế ưu đãi đủ mạnh để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về địa phương làm việc, gắn bó lâu dài.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.