Được coi là một trong 5 cây trồng chủ lực của tỉnh Lào Cai, cây quế vừa góp phần nâng cao tỷ lệ che phủ của rừng, hạn chế thiên tai; vừa nâng cao giá trị sản xuất lâm nghiệp, tạo công ăn việc làm, làm giàu cho người nông dân. Để nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển bền vững diện tích quế, Lào Cai đang hướng đến vùng nguyên liệu sạch, sản xuất theo hướng hữu cơ.
Chủ động xây dựng vùng nguyên liệu sạch
Lào Cai hiện có trên 53.300ha quế, trọng điểm tại các huyện: Bảo Yên, Bắc Hà, Văn Bàn, Bảo Thắng; hình thành vùng nguyên liệu quế tập trung hơn 48.580ha, đạt 92,5% mục tiêu phát triển diện tích quế đến năm 2025 của tỉnh (52.500ha).
Lãnh đạo tỉnh Lào Cai thăm cơ sở quế giống tại huyện Bảo Yên.
Quế được trồng tại 100/152 xã, phường, thị trấn, vừa góp phần nâng cao tỷ lệ che phủ của rừng, hạn chế thiên tai; vừa nâng cao giá trị sản xuất lâm nghiệp, tạo công ăn việc làm, góp phần giúp hàng chục ngàn người dân làm giàu từ nghề rừng.
Chất lượng sản phẩm quế Lào Cai theo đánh giá của các nhà chuyên môn là đứng thứ 3 cả nước. Giá trị sản xuất đạt trên 40 triệu đồng/ha/năm ( thời điểm hiện tại), cao hơn nhiều so với các loại cây trồng lâm nghiệp khác.
Theo ông Nguyễn Văn Diện, Vụ trưởng Vụ phát triển sản xuất Lâm nghiệp (Tổng cục Lâm nghiệp), việc mở rộng diện tích trồng quế những năm gần đây khá nhanh, từ 60.000ha (2016) lên 110.000ha (năm 2021), như vậy, trong tương lai, tổng sản lượng quế của nước ta ước vượt 40.000 tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu quế tăng từ 63 triệu USD (2016) lên 127 triệu USD (2019).
Tuy nhiên, lượng quế được công nhận là quế hữu cơ tại Việt Nam còn khá khiêm tốn, mới khoảng 3ha.
Với giá trị kinh tế từ cây quế đem lại, Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển, mở rộng vùng quế hữu cơ. Nhưng, để đạt chuẩn quế hữu cơ, người dân phải trồng, chăm sóc hướng đến phát triển bền vững, tăng độ phì nhiêu của đất và đa dạng sinh học, không sử dụng thuốc trừ sâu bệnh tổng hợp cũng như phân bón tổng hợp.
Lào Cai hiện có 3.671ha được công nhận vùng quế hữu cơ. Trong đó, huyện Văn Bàn do Công ty ViNaSamex thực hiện 1.374ha/754 hộ; huyện Bắc Hà do Công ty Sơn Hà xây dựng 2.247ha/683 hộ. Công ty CP đầu tư thương mại XNK Việt Bắc đã tổ chức rà soát được 1.000ha tại các xã: Xuân Hòa , Thượng Hà, Vĩnh Yên; liên kết với các hộ dân để xây dựng chứng chỉ Quế hữu cơ vào cuối năm 2022.
Ông Lê Văn Long, Quản lý dự án của Công ty TNHH Hương vị Sơn Hà, cho biết: “Sản xuất hữu cơ là hướng đi của công ty từ những năm 2002. Để có vùng nguyên liệu sạch, ổn định, công ty đã liên kết, hướng dẫn kỹ thuật cho người trồng. Không chỉ ký kết đầy đủ các hợp đồng bao tiêu sản phẩm, chúng tôi còn áp dụng chính sách trả thưởng, ngoài giá bán sản phẩm, cứ mỗi cân quế tươi đạt tiêu chuẩn nông dân được trả thêm 420 đồng, đại lý 220 đồng. Quế khô là 2.400 đồng/kg, đại lý tùy theo hợp đồng khoảng 1000-2000 đồng/kg. Từ khi Sơn Hà xây dựng hệ thống hữu cơ, đã có chính sách này rồi, chỉ đổi đơn giá theo hàng năm. Nên năm 2002, chúng tôi có chứng nhận hữu cơ đầu tiên, nguyên liệu sản xuất luôn đảm bảo.
Tại Yên Bái, riêng tiền trả thưởng cho người dân mỗi năm khoảng 4 tỷ đồng. Ở Lào Cai, chúng tôi đang bắt đầu xây dựng vùng nguyên liệu. Từ năm 2018 đến nay, số tiền trả thưởng là hơn 1 tỷ đồng. Trung bình mỗi năm trả thưởng cho dân khoảng 600 triệu đồng. Nhiều người đã thấy được lợi ích của trồng quế hữu cơ, tự nguyện gắn kết với công ty”.
Ông Trịnh Xuân Trường, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai, nhận định: Trước mắt, tỉnh sẽ rà soát, khoanh vùng khu vực sản xuất nông nghiệp hữu cơ, lồng ghép quy hoạch sản xuất với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch bảo vệ môi trường để xác định vùng trồng mới phù hợp cho phát triển cây quế bền vững. Giải phóng mặt bằng, bố trí mặt bằng sạch để thu hút đầu tư hình thành vùng quế nguyên liệu để phục vụ sản xuất, chế biến, xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong việc đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn tổ chức sản xuất và chứng nhận hữu cơ.
Đặc biệt là, kết nối liên kết vùng, liên kết doanh nghiệp, thành lập các hiệp hội cùng nhau chia sẻ kinh nghiệp, tìm hiểu, phát triển thị trường, đưa các cơ chế chính sách đến từng người trồng quế... Hình thành vùng trồng quế tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Tập trung phát triển chuỗi sản phẩm quế hữu cơ mang thương hiệu sản phẩm quốc gia; từng bước vươn ra thị trường thế giới và trở thành mặt hàng nông - lâm sản xuất khẩu chính; gắn phát triển vùng nguyên liệu quy mô tập trung sản xuất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật với thu hút, kêu gọi đầu tư các cơ sở chế biến sâu có công nghệ hiện đại, có giá trị gia tăng cao.
Chinh phục các thị trường tiềm năng
Thị trường chính của quế Việt Nam là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông... Cây quế hiện đang là sinh kế bền vững cho hàng trăm nghìn hộ nông dân miền núi, đồng thời đóng góp phần phát triển kinh tế - xã hội của nhiều địa phương.
Tại Lào Cai, việc canh tác quế hiện nay chủ yếu vẫn theo kinh nghiệm, quảng canh, dựa vào thiên nhiên là chính, hầu hết diện tích quế của tỉnh đều trồng với mật độ rất dày và trồng thuần loài. Mật độ trồng phổ biến 4.000-5.000 cây/ha. Có hộ trồng tới 10.000 cây/ha. Người dân chưa đầu tư thâm canh hay đầu tư cho khoa học kỹ thuật. Rừng quế đa phần để phát triển tự nhiên, ít chăm sóc; không có tác động của hóa chất như phân bón thuốc trừ sâu nên năng suất thấp, còn tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro như: sinh trưởng phát triển kém, sâu bệnh hại...
Bên cạnh việc tỉa cành, lá, người dân tự sơ chế vỏ quế, bảo quản và bán cho tiểu thương nên giá thành thường thấp, chưa tạo thành chuỗi giá trị. Lào Cai cũng có 1 doanh nghiệp và 2 hợp tác xã thu mua vỏ quế chế biến thành các sản phẩm quế thanh, quế ống điếu, bột quế, quế ống sáo..., tuy nhiên, chỉ ở mức độ là đơn vị trung gian để xuất khẩu sản phẩm sơ chế. Thị trường tiêu thụ vỏ quế chủ yếu là Ấn Độ, Trung Quốc... Tuy thị trường châu Âu và Bắc Mỹ có nhu cầu khá lớn nhưng đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng cao và nghiêm ngặt nên sản phẩm quế Lào Cai nói riêng và quế Việt Nam nói chung khó khăn trong việc gia nhập thị trường này.
Việc phát triển vùng nguyên liệu quế của tỉnh Lào Cai cơ bản đã gắn liền với hệ thống cơ sở chế biến gồm 9 nhà máy và 1 hợp tác xã. Hiện có 2 công ty đã được chấp thuận chủ trương nghiên cứu xây dựng 3 nhà máy chế biến tinh dầu quế tại 2 huyện Bảo Thắng và Bắc Hà. Công suất thiết kế của các cơ sở chế biến dao động 60-120 tấn tinh dầu quế/năm/nhà máy. Trung bình sản lượng tinh dầu quế của tỉnh hàng năm đạt 350-400 tấn tinh dầu. 85% sản lượng tinh dầu quế của tỉnh được xuất bán sang thị Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản... Một phần nhỏ, khoảng 15% tấn tinh dầu quế, được tiêu dùng trong nước.
Các sản phẩm từ quế (vỏ, tinh dầu…) của Lào Cai đã được cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp quảng bá tại các hội chợ, hội thảo xúc tiến thương mại trong và ngoài nước (Dubai - Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất, Paris - Pháp, Moscow- Nga)...Từng bước gắn kết du lịch với quảng bá, giới thiệu sản phẩm ngành hàng quế nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
Theo ông Lê Anh Tuấn, Tư vấn cao cấp của Dự án GREAR, Việt Nam hiện là một trong 5 nước xuất khẩu quế hàng đầu thế giới. Thị trường về mặt hàng quế còn rất lớn, tuy nhiên, ở Việt Nam, chuỗi cung ứng chưa được tổ chức chặt chẽ, áp dụng chứng nhận hữu cơ chưa phát triển, năng lực tiếp thị và hiểu biết thị trường còn nhiều khoảng trống, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu còn mù mờ về thị trường xuất khẩu cao cấp. Vì vậy, ngoài diện tích sản xuất hữu cơ, chúng ta nên đưa các diện tích khác vào sản xuất có truy xuất nguồn gốc xuất xứ, có hợp tác, đây cũng là cơ hội để phát triển thị trường giá trị cao. Nếu cứ bám vào thị trường truyền thống, dễ tính thì rất khó tăng giá trị, không có động lực để cải thiện sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm. Đối với Lào Cai nói riêng và Việt Nam nói chung, chúng ta có thể cạnh tranh về giá, sản phẩm mới có giá trị cao, có chứng nhận theo quy chuẩn kỹ thuật quốc tế như: các tinh chất, hoạt chất, tinh bột…”.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.