Theo thống kê, năm 2021, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU đạt trên 1 tỷ USD, tăng 12%; trong đó, xuất khẩu sang hầu hết các nước thành viên EU đều tăng.
Thực hiện Chương trình cấp quốc gia về Xúc tiến thương mại năm 2022, nhằm hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã cung ứng các sản phẩm thủy sản của Việt Nam tăng cường tìm kiếm đối tác, kết nối các cơ hội kinh doanh và xuất khẩu sang thị trường EU, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) phối hợp với các Thương vụ-Đại sứ quán Việt Nam tại các nước thành viên EU tổ chức Hội nghị giao thương trực tuyến thủy sản Việt Nam-EU 2022 ngày 25-26/4/2022.
Chế biến cá tra xuất khẩu. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Ông Lê Hoàng Tài, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại cho biết, trong nhiều năm qua, EU luôn được biết đến là một trong những thị trường xuất khẩu thủy sản hàng đầu của Việt Nam.
Ngày 1/8/2020, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) chính thức có hiệu lực đã tạo ra nhiều cơ hội cho xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU nhờ hàng loạt cam kết ưu đãi thuế quan.
Theo EVFTA, có khoảng 220 số dòng thuế các sản phẩm thủy sản có thuế suất cơ sở từ 0-22%, số dòng thuế còn lại sẽ được cắt giảm về 0% theo lộ trình từ 3-7 năm, góp phần cho thủy sản Việt Nam tăng khả năng cạnh tranh về giá so với các sản phẩm cùng ngành ở các nước khác.
Sau chiến dịch tiêm phòng COVID-19 và gói kích thích kinh tế từ đầu năm 2021, nhu cầu thủy sản tại thị trường EU đã hồi phục rõ rệt, cùng với lợi thế thuế quan từ Hiệp định EVFTA là cơ hội thúc đẩy xuất khẩu hầu hết các sản phẩm thủy sản Việt Nam sang thị trường này.
Thống kê cho thấy, 3 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,4 tỷ USD, tăng 40% so với năm 2021. Riêng thị trường EU sau 2 năm liên tiếp xuất khẩu giảm sút, 2 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu cá tra sang EU đạt 28 triệu USD, tăng gần 76%, tôm xuất khẩu đạt 159 triệu USD, tăng 66% so với cùng kỳ năm 2021. Trong số đó, xuất khẩu đơn lẻ sang 3 thị trường chính là Hà Lan, Đức, Bỉ tăng lần lượt là 77%, 59% và 82%.
Đáng lưu ý, nhu cầu nhập khẩu tôm vào EU thường tăng vào mùa hè và mùa thu. Chính vì vậy, các nhà nhập khẩu tại thị trường này đã chuẩn bị kỹ các đơn hàng từ thời điểm đầu năm.
Ông Lê Hoàng Tài kỳ vọng qua đây các doanh nghiệp sản xuất cung ứng sản phẩm cho ngành thuỷ sản Việt Nam sẽ có điều kiện tìm hiểu sâu hơn về thị trường EU, nhu cầu hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam với các nước trong khu vực EU để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của ngành thuỷ sản nói chung.
Chia sẻ về nhu cầu thị trường, bà Lê Hoàng Thuý, Tham tán thương mại tại Thụy Điển kiêm nhiệm Phần Lan, Iceland và Latvia cho hay, mặc dù Bắc Âu có mức tiêu thụ tính bình quân trên đầu người cao nhưng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này không đáng kể. Tuy nhiên, nếu không tính nhập khẩu nội khối thì Việt Nam xuất khẩu sang EU chỉ sau Trung Quốc.
Hiện tại, Việt Nam không có đối thủ xuất khẩu cá tra sang Bắc Âu nhưng kim ngạch vẫn thấp do đây là thị trường nhỏ, địa lý xa xôi. Bởi vậy, đa phần đều nhập khẩu từ Việt Nam thông qua các thị trường khác như Hà Lan, Đức, Bỉ, Pháp. Đối với mặt hàng tôm, đây là thuỷ sản chủ lực của Việt Nam sang Bắc Âu và lớn thứ 2 sang EU.
Theo bà Lê Hoàng Thúy, tại các siêu thị ở Bắc Âu, ngày càng có nhiều nguồn cung cấp các sản phẩm tiện lợi và đồ ăn sẵn. Các sản phẩm tiện lợi và đồ ăn sẵn được nhập khẩu từ sản phẩm thô, sau đó, được gia tăng giá trị bởi các công ty chế biến thực phẩm. Khi ngày càng có nhiều người mua các sản phẩm tiện lợi, các doanh nghiệp chế biến sẽ tăng mua sản phẩm thô.
“Đây sẽ là cơ hội cho doanh nghiệp xuất khẩu nếu có thể cung cấp cho bên chế biến một sản phẩm được tiêu chuẩn hóa và dễ dàng gia công, chế biến hoặc cung cấp các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn cho thị trường,” bà Lê Hoàng Thuý nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, người tiêu dùng Bắc Âu đang ngày càng quan tâm hơn đến thực phẩm tốt cho sức khỏe. Trong một cuộc khảo sát gần đây, khi được hỏi một chế độ ăn uống lành mạnh và bền vững, có tới 43% cho biết ăn thực phẩm ít hoặc không có thuốc trừ sâu, 33% cho biết ăn cá thường xuyên hơn và khoảng 24% nghĩ rằng chế độ ăn uống lành mạnh và bền vững liên quan đến thực phẩm hữu cơ, hoặc thực phẩm có lượng khí thải carbon thấp.
Bà Lê Hoàng Thúy cho biết thêm, tính bền vững của thủy sản cũng là một xu hướng đang phát triển ở châu Âu và đang dần được đưa vào các hệ thống quản lý trong tương lai.
Điều này có nghĩa là theo thời gian, EU sẽ thắt chặt hơn việc sử dụng các tiêu chuẩn thực hành sản xuất có trách nhiệm với xã hội và môi trường đối với thủy sản nhập khẩu vào EU.
Nếu như trước đây, tính bền vững của thủy sản trước đây chỉ được quan tâm trong lĩnh vực bán lẻ nhưng hiện tại điều này đang dần thay đổi. Ở Bắc Âu, các đầu bếp nhà hàng ngày càng nhận thức được rằng người tiêu dùng muốn đảm bảo những gì họ ăn là bền vững.
Hơn nữa, mặc dù phát triển chậm, nhưng trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều nhà hàng tiếp thị việc bán hải sản bền vững; trong đó, có những trường hợp, nhà hàng cam kết chỉ bán những loại hải sản được giới thiệu trong sách hướng dẫn về hải sản.
Cùng với đó, các doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ, cũng như ngành khách sạn và dịch vụ ăn uống cũng đang quan tâm đến hải sản được đánh bắt đúng mùa. Ủy ban châu Âu cũng đang kích thích xu hướng này.
Bà Lê Hoàng Thúy cũng lưu ý, dịch COVID-19 khiến người tiêu dùng chú trọng hơn đến sức khỏe và ngày càng quan tâm đến nguồn gốc thực phẩm. Do đó, các cơ chế đảm bảo về quy trình sản xuất và xuất xứ của thủy sản ngày càng trở nên quan trọng. Việc truy xuất nguồn gốc các sản phẩm thủy sản đang trở thành một cơ chế đảm bảo phổ biến trong ngành thủy sản và người mua ngày càng yêu cầu nhiều hơn.
Để xuất khẩu sang thị trường Bắc Âu đạt hiệu quả cao, bà Lê Hoàng Thuý khuyến nghị doanh nghiệp cần tuân thủ các quy định bắt buộc của thị trường cũng như đáp ứng các nhu cầu bổ sung.
Cùng đó, doanh nghiệp phải dán nhãn với các thông tin chính xác và xây dựng thương hiệu, kể chuyện về sản phẩm đi kèm với nghiên cứu phát triển sản phẩm theo xu hướng tiêu dùng.
Nhấn mạnh thêm về cơ hội cũng như tiềm năng xuất khẩu thuỷ sản sang EU, bà Lê Hằng, Phó Giám đốc Trung tâm VASEPPRO cho biết, EU là thị trường lớn với nhiều phân khúc thị trường và sản phẩm, thuận lợi cho việc xuất khẩu các loài và các dạng sản phẩm của Việt Nam.
Hơn nữa, người châu Âu ngày càng ưa chuộng sản phẩm cá thịt trắng vì yếu tố sức khoẻ, trong khi ý thức bảo vệ môi trường và nguồn lợi hải sản ngày càng cao nên cơ hội cho cá nuôi xuất khẩu càng lớn.
Đặc biệt, doanh số bán thủy sản đang phục hồi sau đại dịch COVID-19 và EU cũng là thị trường đang phát triển các sản phẩm tiện lợi và ăn liền. Bên cạnh đó, EVFTA tạo ra lợi thế cạnh tranh thuế nhập khẩu vào EU so với các nước sản xuất khác và Brexit có tác động với thị trường thuỷ sản EU cũng là cơ hội cho Việt Nam. Mặt khác, xung đột giữa Nga và Ukraine và các lệnh trừng phạt với thuỷ sản Nga là cơ hội giành thị phần cá thịt trắng tại EU.
Theo thống kê, năm 2021, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU đạt trên 1 tỷ USD, tăng 12%; trong đó, xuất khẩu sang hầu hết các nước thành viên EU đều tăng.
Có thể nói, đây là một kết quả tích cực trong năm đầu tiên Việt Nam thực thi EVFTA, các doanh nghiệp đã tận dụng được tốt các điều kiện ưu đãi do Hiệp định này mang lại. Con số này có thể cao hơn nữa nếu như quý 3 sản xuất thủy sản của Việt Nam không bị gián đoạn bởi đại dịch COVID-19.
Việt Nam có 5 thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất tại EU bao gồm Hà Lan, Đức, Bỉ, Italy và Pháp, tổng cộng chiếm 72%). Xuất khẩu tất cả các sản phẩm chính sang EU đều tăng trưởng dương, trừ cá tra.
Đáng lưu ý, trong năm qua, xuất khẩu nhuyễn thể có vỏ sang thị trường EU tăng mạnh 37%, đạt 87 triệu USD, chủ yếu do xuất khẩu sản phẩm nghêu tăng 42% với 78 triệu USD.
Đặc biệt, nghêu trở thành loài thủy sản có giá trị xuất khẩu lớn thứ 4 sang thị trường EU; trong đó, xuất khẩu nghêu sang 3 thị trường lớn nhất là Tây Ban Nha, Italy và Bồ Đào Nha đều tăng từ 38-44%./.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.