Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ tư, ngày 24 tháng 4 năm 2024  
Thứ năm, ngày 27 tháng 8 năm 2020 | 11:8

EVFTA, bước ngoặt cơ cấu thị trường của tôm Việt

Trong các hiệp định thương mại tự do Việt Nam ký kết từ nhiều năm qua, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA)  có tác động mạnh nhất đối với ngành tôm Việt.

Cơ hội là rất lớn nhưng không hẳn là dễ tăng trưởng thị phần tôm Việt ở EU.

Để bán được con tôm vào thị trường EU với thuế suất ưu đãi từ EVFTA, vẫn còn nhiều việc mà cả người nuôi tôm và doanh nghiệp chế biến phải làm.

 

tr18.jpg
Chế biến tôm xuất khẩu tại Công ty Kinh doanh chế biến Thủy sản xuất khẩu Quốc Việt (Cà Mau).

Bước ngoặt cơ cấu thị trường

EU hiện là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 2 của Việt Nam và luôn chiếm trên 17 - 18% trong tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Trong đó, xuất khẩu tôm sang EU chiếm 22% thị phần, cá tra chiếm 11%, các mặt hàng hải sản chiếm 30 - 35%... Do đó, việc giảm thuế nhập khẩu khi  EVFTA có hiệu lực sẽ khiến cho đường vào thị trường EU rộng mở hơn đối với hàng thủy sản Việt Nam.

Theo ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch Công ty CP Thực phẩm Sao Ta, tôm được bán vào EU nếu không có Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) thì thuế tôm nguyên con hoặc còn vỏ bỏ đầu xoay quanh 5%. Đây là thế mạnh của tôm Ấn Độ, Ecuador, một số nước Nam Mỹ. Với tôm chế biến như lột vỏ, cấp đông rời thì mức thuế khoảng 10%; còn loại chế biến sâu hơn như tẩm gia vị, bao bột, hấp chín…, thuế là gần 20%. Tôm chế biến là thế mạnh của Việt Nam, Thái Lan.

Do vậy, cơ hội nêu ra sau khi có EVFTA là lợi thế cạnh tranh tôm Việt ở EU mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Điều này thể hiện ở 2 nội dung: Đầu tiên là tôm Việt Nam bán vào EU chủ yếu là tôm chế biến, ít đối thủ cạnh tranh mà chỉ có Thái Lan và Indonesia. Thứ hai là thuế suất của tôm chế biến rất cao (10-20%), điều này khiến các đối thủ vừa nêu càng khó cạnh tranh vì chêch lệch giá thành nhập khẩu cao quá.

Lợi thế tiếp theo là trình độ chế biến tôm của các doanh nghiệp Việt Nam thuộc cấp cao. Họ có thể tận dụng cơ hội này chiếm lĩnh khúc thị phần cao cấp. Tôm chế biến cao sẽ có tỷ suất lợi nhuận cao hơn sản phẩm cấp thấp, các doanh nghiệp tôm có cơ hội gia tăng lợi nhuận và chia sẻ ít nhiều với người nuôi tôm, tạo cú hích mạnh vào ngành tôm Việt Nam những năm tới.

Thu nhập đầu người ở khu vực EU cao, sản phẩm càng nhiều tiện ích thì càng được ưa chuộng. Điều này cũng có nghĩa là phân khúc thị trường cao cấp rất rộng, đủ dư địa để các doanh nghiệp tôm Việt Nam lựa chọn những hệ thống phân phối thuỷ sản vừa tầm cung ứng. Thủy sản Việt Nam có thể tiếp cận một thị trường tiêu thụ thủy sản với dân số trên 500 triệu người. Hàng năm, nhu cầu thủy sản của EU đạt mức 22,03 kg/người, cao hơn 5,34 kg/người so với mức trung bình của thế giới.

Ông Hồ Quốc Lực, cho rằng, trong các hiệp định thương mại tự do Việt Nam đã ký kết từ nhiều năm qua, EVFTA có tác động mạnh nhất đối với ngành tôm Việt. Các hiệp định thương mại song phương với Hàn Quốc (KVFTA) hoặc Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam với Nhật Bản (JVFTA) chỉ đưa tôm Việt nhập vào các nước thuộc những hiệp định này trong bối cảnh chỉ vài phần trăm thuế trước đó về bằng 0%. Tuy nhiên, với EVFTA có sự khác hẳn, sẽ tạo một bước ngoặt lớn về cơ cấu thị trường tôm Việt.

Đối với Công ty CP Nam Việt, với tỉ trọng xuất khẩu của công ty vào thị trường EU là 13%, đứng thứ tư về tỉ trọng trong kim ngạch xuất khẩu, doanh nghiệp này sẽ được hưởng lợi nhờ việc kí kết EVFTA. Theo VASEP, ngay khi EVFTA có hiệu lực, thuế nhập khẩu tôm nguyên liệu (tôm hùm xanh ướp đá; tôm sú tươi đông lạnh;…) vào EU sẽ về 0% từ mức hiện tại là 12,5%; thuế sản phẩm tôm về 0% từ 20% hiện tại. Đây là lợi thế lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu tôm.

Ông Lê Văn Quang, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Minh Phú, cho rằng, EU sẽ là thị trường thuận lợi nhất nhờ thông tin giảm thuế trong bối cảnh các thị trường tiêu thụ tôm khác đều đang giảm nhu cầu nhập khẩu. Hiện tại, tỷ trọng xuất khẩu của Minh Phú vào EU là 11%. Thị trường xuất khẩu chủ yếu vẫn là Mỹ và Nhật.

Để có niềm vui trọn vẹn

Theo ông Hồ Quốc Lực, chúng ta thấy cơ hội là rất lớn nhưng không hẳn là dễ tăng trưởng thị phần tôm Việt ở EU nhanh được. Điều gì cũng có giá của nó. Muốn tôm vào được những hệ thống phân phối cao, các doanh nghiệp tôm của Việt Nam phải đáp ứng không ít tiêu chuẩn.

Đầu tiên là khâu tổ chức chế biến. Việc đáp ứng thể hiện ở các khía cạnh như cơ sở phải đáp ứng các quy định nghiêm ngặt của của quy định chung lẫn quy định riêng từng hệ thống. Về các phần cứng, doanh nghiệp có thể dùng tiền đầu tư hoàn thiện.

 

tr19.jpg
Chế biến tôm xuất khẩu tại Công ty TNHH kinh doanh chế biến Thủy sản xuất nhập khẩu Quốc Việt.

 

Dù vậy, thứ khó lòng đáp ứng ngay được hết các nội dung yêu cầu là quy định trách nhiệm xã hội. Điều kiện kinh tế, hoàn cảnh xã hội của Việt Nam khác với EU. Chuyện làm thêm, ngày nghỉ cho người lao động là bài toán khó cho doanh nghiệp Việt Nam trong hoàn cảnh chế biến thuỷ sản là ngành khá vất vả, không thu hút được người lao động như ý muốn.

Vào vụ nếu không tăng ca, nguyên liệu có thể hư hỏng, gây thiệt hại. Còn nếu tăng ca, làm thêm giờ thì Bộ Luật Lao động của ta lại “tự ghè chân mình” với quy định về số giờ làm thêm hàng tuần, hàng tháng, hàng năm quá khiêm tốn. Các hệ thốnng từ EU mua tôm của những doanh nghiệp Việt Nam thuê bên thứ ba có thể vào cơ sở chế biến bất cứ lúc nào để kiểm tra thực trạng, sổ sách. Rất dễ có sai sót.

Thứ hai là nguồn tôm nguyên liệu. Đa số hệ thống phân phối cao cấp không chỉ đòi hỏi việc truy xuất nguồn gốc mà còn yêu cầu tôm cung ứng phải nuôi đạt chuẩn ASC.

Để đạt chuẩn này, các cơ sở nuôi phải có tài chính đủ mạnh mới đáp ứng việc đầu tư theo quy định và quy mô nuôi phải khá lớn mới chia sẻ được chi phí đầu tư thêm vừa nêu. Tình hình nuôi tôm của chúng ta hiện nay tương đối khó xử bởi chúng ta nuôi nhỏ lẻ là chủ yếu, chưa kể người nuôi tôm thiếu vốn và ít đất. Vì thế mà hiện nay, diện tích nuôi đạt chuẩn nói trên chỉ đạt khoảng 5% diện tích nuôi tôm trên cả nước.

Một số chuyên gia thương mại cho rằng, với EVFTA, cơ hội của Việt Nam là có nhưng chúng ta chỉ nên lạc quan dè dặt và ông Hồ Quốc Lực cho rằng, 20% thị phần tôm Việt tại EU cũng nói lên nỗ lực của các doanh nghiệp tôm Việt Nam các năm qua. Các thương nhân tôm Việt Nam không ai là không lộ rõ niềm vui khi EVFTA có hiệu lực.

“Nhưng niềm vui này của các doanh nghiệp tôm sẽ trọn vẹn hơn khi có sự đồng hành kịp thời của Chính phủ và bộ ngành liên quan. Tôi kiến nghị sớm sửa đổi  một số điều khoản trong Bộ luật Lao động cho tương đồng khi hội nhập, sửa đổi sớm quy định tích tụ tập trung đất đai trong Luật Đất đai, hình thành trang trại nuôi lớn đạt chuẩn theo yêu cầu của thị trường, quan tâm hơn đến việc thông thoáng tín dụng cho ngành nuôi tôm…

Nói chung, để biến lợi thế từ EVFTA thành của cải vật chất tăng thêm như mong đợi, tôi nghĩ còn nhiều việc phải làm. Thủ tướng nói EVFTA là “đại lộ” nối Việt Nam với EU. Đại lộ đó dài lắm, muốn đến sớm thì cần có những cỗ xe tốt. Cỗ xe tốt đó là tương tác kịp thời, nhanh nhất của cả hệ thống với cộng đồng doanh nghiệp liên quan. Thời cơ không chờ lâu khi mà một số nước cũng đang rục rịch có đàm phán thương mại tự do với EU”, ông Hồ Quốc Lực cho hay.

Còn nhiều việc phải làm

Phía sau mỗi một cơ hội đều ẩn chứa những rủi ro, thách thức mà nếu không nhận diện chính xác và hiểu đúng chẳng những không thể giúp gia tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, mà đôi khi còn đẩy doanh nghiệp đến khó khăn nhiều hơn. EVFTA là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với độ mở khá lớn nhưng cũng có không ít những ràng buộc mà doanh nghiệp phải tuân thủ nếu muốn tham gia, tận dụng cơ hội tốt từ sân chơi lớn này.

Nếu nhìn vào các ưu đãi về thuế suất của EVFTA có thể thấy, con tôm Việt Nam sẽ có nhiều lợi thế so với một số đối thủ cạnh tranh chính như: Thái Lan hay Indonesia. Điều này ai cũng dễ dàng nhìn thấy, nhưng để bán được con tôm vào thị trường EU với thuế suất ưu đãi từ EVFTA vẫn còn nhiều thứ mà doanh nghiệp phải làm.

Bởi thế, TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương,  cho rằng, các doanh nghiệp, cơ quan quản lý Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm để tận dụng được các cơ hội từ hiệp định này, bởi “EVFTA không phải là mâm cỗ bày sẵn” mà mình chỉ có việc ngồi vào ăn.

Nói không dễ dàng bởi EVFTA đặt ra nhiều điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm, sở hữu trí tuệ, lao động… Trong đó, đối với con tôm, ngoài việc không còn chất Ethoxyquin (áp dụng từ đầu tháng 4-2020), còn phải đạt chứng nhận ASC, phải được truy xuất nguồn gốc rõ ràng và khó khăn nhất được các doanh nghiệp nhận định chính là các chính sách xã hội (lao động, môi trường…). Để đáp ứng yêu cầu này, hiện các cơ quan quản lý đang chung tay cùng doanh nghiệp trong việc siết chặt công tác quản lý chất Ethoxyquin trong thức ăn và các vật tư phục vụ nuôi tôm; vận động người nuôi tôm liên kết thực hành nuôi theo tiêu chuẩn ASC; đồng thời, đẩy nhanh tiến độ đăng ký, cấp mã số ao nuôi, vùng nuôi ngay trong năm 2020 này.

Liên quan đến chứng nhận ASC, theo các doanh nghiệp, cũng là vấn đề khó khi hiện tại,  diện tích nuôi tôm đạt chứng nhận này chỉ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn tại các tỉnh, thành nuôi tôm lớn trên cả nước. Bởi thế, hầu hết các doanh nghiệp đều phải bỏ ra một số tiền lớn để đầu tư các khu nuôi riêng hoặc liên kết hỗ trợ người nuôi trong việc thực hành, tư vấn đánh giá đạt tiêu chuẩn ASC.

Tuy đã rất nỗ lực, nhưng số diện tích liên kết nuôi tôm đạt chuẩn ASC  đến nay vẫn còn thấp, mà nguyên nhân chủ yếu là do diện tích hộ nuôi còn nhỏ lẻ, tính liên kết chưa cao… Ngay cả những diện tích nuôi theo mô hình CPF – Combine được đánh giá là đủ điều kiện để đạt chứng nhận ASC, nhưng các doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận do diện tích của hộ nuôi là quá nhỏ, chưa tương xứng với chi phí đầu tư cho tư vấn, đánh giá.

Bên cạnh độ khó từ các quy định do EU đặt ra, theo các doanh nghiệp, để nắm bắt và tận dụng tốt cơ hội từ EVFTA, các doanh nghiệp còn phải biết “đãi cát tìm vàng”, như: nắm bắt kịp thời, chính xác thông tin về nhu cầu kích cỡ tôm từ thị trường; sản lượng, kích cỡ tôm thế giới mà đặc biệt là từ các đối thủ cạnh tranh chính… để đưa ra các quyết định kịp thời và đúng đắn nhất. Đơn cử như trường hợp thiếu hụt tôm thẻ cỡ lớn trong năm 2019 do vùng nuôi của Ấn Độ gặp khó khăn, nhiều doanh nghiệp nắm bắt kịp thời ký được hợp đồng giá tốt, nhưng cũng có doanh nghiệp lao đao vì không có đủ tôm để giao dù đã đẩy giá thu mua lên rất cao.

Theo ông Hồ Quốc Lực, nói chung, cơ hội kinh doanh tốt là nền tảng cho sự tăng trưởng, thậm chí bứt phá. Cơ hội kinh doanh tới bất kỳ lúc nào, nhưng muốn nhận diện được nó cần những cái đầu có chủ định, nhạy bén. Ông Lực chia sẻ: “Thời buổi này hết sức coi trọng mọi cơ hội kinh doanh. Muốn vậy, doanh nhân tôm Việt Nam phải am hiểu nhiều lĩnh vực, từ nuôi, chế biến, khai thác; từ diễn biến tình hình các thị trường tiêu thụ; từ diễn biến xu thế người tiêu dùng; các vấn đề không riêng lĩnh vực kinh tế mà phải tỏa ra các lĩnh vực tài chính, chính trị, xã hội, môi trường... Tất cả trên phạm vi thế giới”!.

 

Thanh Tâm
Ý kiến bạn đọc
  • Tín dụng chính sách trợ lực giảm nghèo bền vững

    Tín dụng chính sách trợ lực giảm nghèo bền vững

    Nhằm giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo vươn lên cải thiện cuộc sống, các sở, ban, ngành và các cấp chính quyền huyện, thị, thành phố của tỉnh Hậu Giang đã và đang triển khai thực hiện các dự án đa dạng hóa sinh kế, nhân rộng mô hình giảm nghèo bền vững. Thông qua vốn tín dụng chính sách của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đầu tư vào sản xuất - kinh doanh, đời sống người dân đã được nâng cao, từng bước thoát nghèo, vươn lên khá - giàu.

  • “Quả ngọt” từ dòng vốn chính sách

    “Quả ngọt” từ dòng vốn chính sách

    Thời gian qua, từ các chương trình tín dụng ưu đãi, hàng nghìn hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Phú Thọ được tiếp cận vốn để phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo.

  • Vốn chính sách “kích cầu” hình thành bản du lịch

    Vốn chính sách “kích cầu” hình thành bản du lịch

    Thời gian qua, NHCSXH huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã đồng hành thực hiện các mục tiêu mà nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội địa phương đề ra.

Top