Việt Nam hiện có 13 vùng thu hoạch nhuyễn thể được phép XK. Sản phẩm nhuyễn thể đã có mặt ở 67 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có một số thị trường chính như: EU, Mỹ, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, Australia…, đóng góp quan trọng trong cơ cấu ngành.
Tiềm năng của ngành này là rất lớn.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu nhuyễn thể, phải kiểm soát chặt chẽ từ vùng nuôi cho đến thu hoạch, vận chuyển, sơ chế, chế biến, tiêu thụ, truy xuất nguồn gốc...
Ngành hàng trăm triệu USD
Những năm gần đây, nghề nuôi nhuyễn thể ở nước ta phát triển mạnh 2 đối tượng ngao và hàu Thái Bình Dương, tập trung ở các tỉnh ven biển. Tổng diện tích tiềm năng phát triển nuôi nhuyễn thể tại các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh tới Kiên Giang là 206.350 ha. Với lợi thế bờ biển dài 3.260km và khoảng 1,75 triệu hecta bãi triều là lợi thế cho phát triển thuỷ sản nói chung và nhuyễn thể nói riêng.
Nhuyễn thể Việt Nam hiện có mặt ở 67 quốc gia và vùng lãnh thổ, với sản lượng 300.000 tấn, đạt giá trị 141 triệu USD.
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Phùng Đức Tiến, công nghệ chế biến nhuyễn thể của Việt Nam đang xếp tốp đầu của khu vực và thế giới, tuy nhiên, tỷ lệ chế biến chưa nhiều. Bên cạnh đó, chất lượng giống chưa đồng đều; tỷ lệ nuôi sống còn thấp; vấn đề nuôi dưỡng gắn với quan trắc môi trường còn có những điểm nghẽn cần phải tháo gỡ.
Bến Tre là địa phương có diện tích mặt nước có ngao giống xuất hiện trong tự nhiên hàng năm lớn, gần 500 ha. Nghề nuôi ngao ở đây cũng có từ lâu đời, trước những năm 90 của thế kỷ trước.
Gần đây, Bến Tre đã chuyển đổi hình thức nuôi, thành lập 3 hợp tác xã chuyên nuôi ngao và nhuyễn thể hai mảnh vỏ: Rạng Đông, Đồng Tâm và Tân Thủy. Từ năm 2009, nghề nuôi ngao Bến Tre đã được chứng nhận đạt tiêu chuẩn MSC.
Ông Nguyễn Văn Buội, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bến Tre, cho biết, địa phương có 65 km bờ biển với 48.000ha có tiềm năng nuôi trồng thủy sản khu vực nước lợ, nước mặn, trong đó có khoảng 15.000 ha bãi bồi ven biển có tiềm năng về nuôi các loại nhuyễn thể hai mảnh vỏ, đặc biệt là ngao.
Từ thực tế tại Bến Tre, ông Buội đề xuất các nhóm giải pháp để nghề nuôi phát triển bền vững: Tiếp tục duy trì và phát triển mô hình quản lý ngao theo tiêu chuẩn phát triển bền vững MSC, ứng dụng rộng rãi công nghệ sản xuất ngao giống nhằm đạt kích cỡ lớn trước khi xuất bán, thả nuôi ngoài tự nhiên; điều tra đánh giá nguồn lợi để tiếp tục xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định bảo tồn nguồn ngao giống ngoài tự nhiên; quy định chế độ bảo vệ và quan trắc, kiểm soát môi trường nuôi, khai thác ngao thương phẩm và nghêu giống; tiếp tục xây dựng chuỗi liên kết bền vững nuôi ngao...
Chia sẻ về hoạt động nghiên cứu, chọn tạo, chuyển giao công nghệ sản xuất giống nhuyễn thể cũng như giải pháp để nâng cao chất lượng giống, kiểm soát môi trường vùng nuôi, bà Đặng Thị Lụa, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 cho biết, theo khuyến cáo, mật độ nuôi dưới 400 con/m2 nhưng người dân ở nhiều vùng nuôi trên 1.000 con/m2.
“Trong điều kiện bình thường sẽ không có vấn đề xảy ra, nhưng khi có vấn đề về môi trường và đặc biệt là sự biến động của thủy triều, với mật độ nuôi dày đặc sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của ngao, đây là một trong những yếu tố gây nên hiện tượng ngao chết hàng loạt. Quan trắc môi trường nuôi nhuyễn thể thấy, ở những vùng nuôi tập trung mật độ lớn, có giảm chất lượng về nền đáy của vùng nuôi nhuyễn thể, vùng nuôi ngao. Đây cũng là vấn đề cần phải tiếp tục được đầu tư nghiên cứu”, bà Lụa cho biết.
Điểm sáng Nam Định
Ở miền Bắc, Nam Định là tỉnh đứng thứ 2 về diện tích nuôi ngao (sau Thái Bình). Theo đó, ngao đã trở thành đối tượng chủ lực trong phát triển kinh tế biển với 2 vùng nuôi hàng hóa tập trung tại Giao Thủy (khoảng 1.800 ha) và Nghĩa Hưng (500 ha). Sản lượng năm 2021 trên 43.200 tấn, tiêu thụ nội địa 30%, 70% còn lại là xuất khẩu tươi và xuất cho các nhà máy chế biến xuất khẩu.
Ông Đào Vương Quân, Công ty TNHH thủy sản Minh Phú (Giao Thủy) chia sẻ, Nam Định là nơi tập trung nghề nuôi ngao và sản xuất ngao giống với tổng cộng 137 cơ sở sản xuất giống, mỗi năm cung ứng cho thị trường 20 - 30 tỷ con giống. Thách thức đối với ngành sản xuất ngao giống tại địa phương là, hầu hết các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, sản xuất theo kinh nghiệm nên sản lượng không ổn định, chất lượng không đồng đều, dễ bị thiệt hại do ảnh hưởng bởi thời tiết, thiên tai,...
Từ đó, ông Quân đề xuất, để nghề sản xuất ngao giống phát triển bền vững, mang lại hiệu quả kinh tế, giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động, Tổng cục Thủy sản cùng với các viện, trường, tổ chức, cá nhân cần phối hợp hành động, xây dựng dự án tái tạo và phát triển quần thể đàn ngao bố mẹ chất lượng tại các tỉnh ven biển làm nền tảng và động lực khuếch trương nghề nuôi ngao, tạo nguồn nguyên liệu thủy sản có giá trị phục vụ chế biến xuất khẩu.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định Hà Lan Anh cho biết: “Vùng nuôi liên kết Lenger Farm” 500ha của các cơ sở nuôi ngao ở xã Nam Điền (Nghĩa Hưng) liên kết với Công ty Lenger đã được chứng nhận nuôi ngao bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế ASC và ASC/CoC đầu tiên tại Việt Nam và trên thế giới”.
“Chứng nhận nuôi ngao bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế ASC và ASC/CoC được ví như “Visa Vip” để các sản phẩm ngao của Nam Định đi vào nhiều thị trường trên thế giới, nhất là châu Âu, Nhật Bản và hệ thống siêu thị cao cấp tại Trung Quốc, mang lại giá trị cao gấp 2 - 3 lần”, bà Lan Anh nhấn mạnh.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Nam Định Hoàng Thị Tố Nga cho biết, tỉnh đã triển khai Chương trình kiểm soát an toàn thực phẩm trong thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ từ năm 2009. Hiện, 2 vùng nuôi của Nam Định được phép thu hoạch và cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
Thời gian tới, Nam Định tiếp tục đẩy mạnh việc củng cố phát triển chuỗi liên kết nuôi và tiêu thụ ngao an toàn theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; mở rộng vùng nuôi ngao bền vững được chứng nhận theo tiêu chuẩn ASC; ứng dụng công nghệ khoa học mới để phát triển chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ ngao trên địa bàn.
Xuất khẩu ấn tượng
Theo Tổng cục Thủy sản, nhuyễn thể được xác định là một trong những ngành hàng chủ lực bởi giá trị kinh tế và tiềm năng phát triển. Các đối tượng nuôi chủ yếu là: ngao, sò huyết, ốc hương, trai ngọc, điệp, bào ngư, hàu… Các tỉnh, thành nuôi nhuyễn thể chủ lực là Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bến Tre, Cà Mau, Tiền Giang, Bạc Liêu, Trà Vinh, Sóc Trăng, TP. Hồ Chí Minh.
Hiện, cả nước có khoảng 500 cơ sở sản xuất, kinh doanh giống nhuyễn thể, trong đó chủ yếu sản xuất giống nghêu (hơn 130 tỷ con, đáp ứng trên 60% nhu cầu nuôi).
Nhiều địa phương, hợp tác xã và người dân đã chủ động được công nghệ sản xuất giống nhiều đối tượng nhuyễn thể chủ lực, kết hợp chế biến trên trang bị công nghệ, thiết bị hiện đại, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.
Con giống là một điểm yếu của nghề nuôi nguyễn thể nước ta, hiện mới đáp ứng 50% nhu cầu. Điểm yếu thứ 2, công tác quản lý môi trường, quản lý nuôi còn nhiều bất cập. Điểm yếu thứ 3 là, kích cỡ ngao thành phẩm của ta nhỏ hơn so với yêu cầu các thị trường nhập khẩu. Điểm yếu thứ tư là, chưa tận dụng hết các sản phẩm phụ từ ngao. Điểm yếu thứ năm là, vùng nuôi được cấp mã vùng và đạt chuẩn ASC, ASC/CoC còn ít. |
Ông Lê Thanh Hòa, Phó cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và PTNT), cho hay, năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu nhuyễn thể đạt hơn 125 triệu USD, trong đó, ngao đạt hơn 107 triệu USD; sò điệp 12,3 triệu USD; hàu hơn 5,6 triệu USD…
Về thị trường xuất khẩu nhuyễn thể: xuất khẩu sang EU đạt hơn 88,7 triệu USD, tăng 37,9% so với năm 2020; xuất khẩu sang Mỹ đạt gần 18 triệu USD, tăng trưởng 139,8%; xuất khẩu vào thị trường châu Á đạt hơn 15 triệu USD, tăng trưởng 0,4% (trong đó, sang Nhật Bản đạt gần 3,5 triệu USD, tăng trưởng 6,6%).
Năm 2021, xuất khẩu nhuyễn thể sang thị trường EU tăng mạnh rất mạnh; trong đó, xuất khẩu sản phẩm nghêu tăng 42%, đạt 78 triệu USD.
Theo ông Nguyễn Như Tiệp, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng nông - lâm - thủy sản (Bộ Nông nghiệp và PTNT), nhu cầu thị trường quốc tế về các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ rất cao. Hiện, sản lượng thu hoạch ngao ở nước ta chưa đáp ứng đủ các đơn đặt hàng từ châu Âu.
“Tuy nhiên, tỷ lệ cấp Giấy chứng nhận xuất xứ cho sản phẩm ngao tại nước ta chưa nhiều; sản phẩm thiếu đa dạng, và ít giá trị gia tăng; khâu quảng bá, phát triển thương hiệu, thị trường còn hạn chế”, ông Tiệp nêu thực tế.
Ông Tiệp minh chứng bằng số các lô hàng nhuyễn thể hai mảnh vỏ xuất khẩu vẫn bị nước ngoài cảnh báo, trong đó: Thị trường EU cảnh báo 3 lô nghêu hấp nhiễm Salmonella (năm 2021); thị trường Đài Loan (Trung Quốc) cảnh báo hàu tươi ướp đá từ Vân Đồn (Quảng Ninh) phát hiện Norovirus (năm 2020: 10 lô, năm 2021: 2 lô).
Cần tận dụng các hiệp định thương mại tự do
Nghề nuôi nhuyễn thể, đặc biệt nuôi nghêu hiện nay đang đối mặt với nhiều khó khăn như nguồn lợi suy giảm, chất lượng con giống không ổn định, tác động của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu.
Nhận diện rõ những khó khăn, vướng mắc, nhưng Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng cho rằng, nhóm các sản phẩm nuôi trong ngành hàng nhuyễn thể nước ta có nhiều cơ hội phát triển tốt, như: tổng diện tích mặt nước lên tới 1 triệu hecta, đường bờ biển dài 3.260km, các cấp, các ngành và địa phương đang chuyển dịch mạnh từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp.
Để khai thác tốt nhất cơ hội, nhất là việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do, đồng thời phấn đấu đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu, tiêu thụ nội địa năm 2022 cao hơn năm 2021, Thứ trưởng giao Tổng cục Thủy sản tổ chức triển khai có hiệu quả các quy định của Luật Thủy sản trong sản xuất giống, nuôi thương phẩm các đối tượng nhuyễn thể có giá trị kinh tế; tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý điều kiện nuôi trồng thủy sản, quan trắc môi trường nuôi trồng thủy sản vùng nuôi nhuyễn thể.
Các quy trình kỹ thuật nuôi nhuyễn thể nhằm nâng cao chất lượng nhuyễn thể thương phẩm cũng được lãnh đạo Bộ giao cho Tổng cục Thủy sản. Ngoài ra, đơn vị còn nhiệm vụ tổng hợp, nhân rộng các mô hình liên kết, hợp tác hiệu quả trong ngành hàng nhuyễn thể; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và chuyển giao khoa học công nghệ sản xuất giống các đối tượng nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao.
Với Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Thứ trưởng yêu cầu chủ động, thường xuyên đánh giá diễn biến thị trường, đề xuất giải pháp, kịp thời thông tin để người dân biết, có kế hoạch sản xuất phù hợp. Chủ động xác định các sản phẩm nhuyễn thể chế biến có giá trị, phù hợp với thị hiếu để đưa vào các hoạt động xúc tiến thương mại cũng là một ưu tiên mà Cục cần làm.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Phùng Đức Tiến cho biết, ngành nhuyễn thể của Việt Nam có tiềm năng và dư địa rất lớn. Sản lượng nhuyễn thể tăng sẽ góp phần vào mục tiêu xuất khẩu đạt 7 triệu tấn thủy sản năm 2030 sẽ không khó. Mục tiêu đến năm 2030, diện tích nhuyễn thể của Việt Nam trên 42.000 ha; sản lượng 514.000 tấn. Trong đó, ngao diện tích trên 24.000 ha và sản lượng đạt trên 39.000 tấn. |
Cục Thú y, Cục Quản lý chất lượng nông - lâm sản và thủy sản cần tăng cường kiểm dịch, kiểm soát dịch bệnh trong sản xuất giống, nuôi thương phẩm, kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm. Đây là cơ sở để xây dựng, phát triển cơ sở, vùng sản xuất giống, nuôi nhuyễn thể an toàn dịch bệnh, đảm bảo truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
“Chúng ta cần phải cảm nhận một cách rõ rệt từng yếu tố tác động đến vùng nuôi nhuyễn thể. Không thể vì một vấn đề nhỏ như nước triều xuống lại khiến ngao bị quá nhiệt, gây thiệt hại cho người dân. Từng khâu trong quá trình chọn tạo, nuôi, kiểm soát an toàn phải sâu sát”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Trong Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, ngành thủy sản đặt mục tiêu giảm lượng khai thác, tăng sản lượng nuôi trồng. Trên quan điểm phát triển ngành hàng nhuyễn thể một cách bền vững, Thứ trưởng tin đây sẽ là yếu tố góp phần giảm cường lực khai thác hải sản thời gian tới.
Về phía địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và người dân, lãnh đạo ngành Nông nghiệp đề nghị tiếp tục đánh giá và bổ sung các vùng nuôi dưỡng phù hợp với tiêu chuẩn MSC. Bên cạnh đó, các cơ sở cần hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi để giảm khâu trung gian, giảm giá thành sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm; đồng thời áp dụng các hình thức nuôi có chứng nhận (VietGAP, GlobalGAP, ASC…) để nâng cao giá trị sản phẩm.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.