Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024  
Thứ ba, ngày 31 tháng 12 năm 2019 | 11:29

Tin NN Tây Bắc: Yên Bái tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản

Những năm qua, tỉnh đã quan tâm đầu tư hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Nhờ đó, tốc độ tăng tổng sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản (GRDP) bình quân hàng năm đạt trên 4,20%.

nong-san-yen-bai.jpg

Các sản phẩm nông sản đặc sản địa phương được giới thiệu tại Tuần lễ Hàng nông sản tỉnh Yên Bái năm 2019 tổ chức tại Hà Nội. Ảnh: Báo Yên Bái.

 

An ninh lương thực được giữ vững, gia tăng mạnh mẽ về quy mô diện tích các cây trồng, vật nuôi chủ lực. Qua đó, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn như: vùng lúa chất lượng 3.000 ha, vùng cây ăn quả có múi trên 3.500 ha, vùng quế trên 68.000 ha, vùng tre măng Bát độ trên 3.600 ha, vùng sơn tra trên 6.000 ha, vùng gỗ nguyên liệu 180.000 ha... 

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông lâm sản, thủy sản còn bộc lộ những hạn chế: phát triển sản xuất mới chú trọng số lượng để hình thành vùng nguyên liệu, sản phẩm hàng hóa nhưng chất lượng, giá trị sản phẩm còn thấp; chưa có sự liên kết sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Các sản phẩm chủ lực có khối lượng lớn chủ yếu bán dưới dạng nguyên liệu, sản phẩm thô, không có tiêu chuẩn, nhãn mác nên giá trị thương mại thấp hơn so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường.

Ông Lại Thế Hùng - Phó Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng nông - lâm sản và thủy sản tỉnh Yên Bái cho biết: "Hiện nay, trong sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp của tỉnh chưa thu hút được các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, chế biến nên chưa  xây dựng và phát triển nhãn hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp. Cùng đó, các chính sách đầu tư hỗ trợ cho sản xuất mới chỉ chú trọng khâu sản xuất và hiện chưa có chính sách hỗ trợ xây dựng tiêu chuẩn chất lượng, chứng nhận sản phẩm, xây dựng nhãn hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp”. 

Hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại cho các sản phẩm nông lâm sản, thủy sản cũng đã được quan tâm; một số doanh nghiệp đã đưa sản phẩm tham gia các hội chợ, chương trình xúc tiến thương mại tại Hà Nội và các tỉnh, nhưng do sản phẩm chủ yếu là dạng thô, không có chứng nhận tiêu chuẩn; do đó, không đáp ứng yêu cầu của các nhà phân phối. 

Chi cục Quản lý chất lượng nông - lâm sản và thủy sản tỉnh phối hợp với các công ty truyền thông đã xây dựng một số chương trình giới thiệu sản phẩm trong chuyên mục "Nông sản sạch” nhưng chủ yếu là các sản phẩm nông sản đặc sản địa phương.

Xuất phát từ thực tế đó, tỉnh xây dựng Đề án "Nâng cao chất lượng và xúc tiến thương mại cho các sản phẩm nông lâm sản và thủy sản tỉnh Yên Bái giai đoạn 2019 - 2021”. Việc xây dựng Đề án để thực hiện các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất chế biến tiêu thụ nông - lâm sản áp dụng các quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn, sản phẩm có chứng nhận, từ đó xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh. 

Yên Bái phấn đấu đến hết năm 2021, việc áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) được áp dụng phổ biến trong sản xuất, chế biến các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh; tổng số cơ sở, đơn vị được sản xuất và cấp tiêu chuẩn chứng nhận là 89 đơn vị, trong đó, 83 đơn vị đạt tiêu chuẩn chứng nhận VietGAP; 6 sản phẩm được đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý; tổ chức và hỗ trợ các đơn vị sản xuất tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. 

Nuôi dê thoát nghèo ở Bản Bông

Sau 2 năm nuôi dê theo Dự án hỗ trợ giảm nghèo, nhiều hộ ở thôn Bản Bông 1 - 2, xã Bảo Hà (Bảo Yên, Lào Cai) đã có mô hình kinh tế phù hợp để thoát nghèo.

 

de.jpg

Nuôi dê giúp gia đình anh Lý Hữu Tài thoát nghèo. Ảnh: Báo Lào Cai

 

Ông Bàn Tài Cào, Trưởng Ban công tác Mặt trận thôn dẫn chúng tôi tới thăm mô hình nuôi dê của gia đình anh Lý Hữu Tài. Mô hình được thôn đánh giá là một trong những mô hình phát triển tốt và giúp gia đình anh Tài thoát nghèo.

Anh Tài cho biết: Ban đầu khi nhận nuôi dê, gia đình khó khăn nên tôi khá lo lắng. Tuy nhiên, rồi cũng quen vì con dê rất dễ tính, lá cây gì cũng ăn, chỉ cần cho ăn thêm tinh bột và có chuồng nuôi ổn định, có đồi thả thì phát triển tốt, nhanh lớn. Năm 2019, sau khi bắt đầu có lãi từ chăn nuôi dê, gia đình tôi đã tự nguyện viết đơn xin thoát khỏi danh sách hộ nghèo.

Trước đó, đầu năm 2017, gia đình anh Tài cùng 30 hộ khác trong thôn được hỗ trợ theo Dự án hỗ trợ giảm nghèo của tỉnh, mỗi hộ nhận 2 con dê. Khi nhận dê, anh được tham gia tập huấn kỹ thuật nuôi. Đến nay là hơn 2 năm, gia đình anh đã nhân đàn lên 13 con và bắt đầu có lãi từ việc bán dê thịt và dê giống.

Sau hơn 2 năm được hỗ trợ theo dự án giảm nghèo, đàn dê của thôn Bản Bông đã được nhân lên hơn 130 con và nhiều gia đình đã có trang trại nuôi hoàn chỉnh như gia đình anh Đặng Văn Nhị có 17 con dê, gia đình anh Lý Hiếu Tài có 22 con dê, gia đình anh Đặng Ton Trung có 17 con…

Bà Đặng Thị Loan, Trưởng thôn Bản Bông 1 - 2 cho biết: Mô hình nuôi dê mới được triển khai nhưng đã đem lại hiệu quả. Đã có hơn 30 hộ của thôn tham gia mô hình, nhiều hộ có thu nhập tăng thêm. Việc tiêu thụ dê diễn ra khá ổn định, tư thương vào tận nhà người dân để mua với giá khoảng 100 - 120 nghìn đồng/kg. Đặc biệt, hiện nay dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp thì việc chuyển đổi sang nuôi dê là hướng đi mới hiệu quả.

Cùng với mô hình nuôi dê, người dân Bản Bông có thêm mô hình trồng quế. Nhiều diện tích quế bắt đầu cho thu hoạch, góp phần giúp người dân thoát nghèo. Theo tính toán của địa phương, hiện nay thu nhập bình quân của người dân ở Bản Bông khoảng 20 triệu đồng/người/năm. Trong năm 2019, thực hiện xây dựng nông thôn mới, người dân Bản Bông đã hiến đất, góp công làm 2 km đường bê tông trục thôn, làm nhà văn hóa thôn trị giá hơn 200 triệu đồng. Trong năm đã có 65 gia đình tham gia chỉnh trang, xây dựng nhà cửa khang trang, sạch đẹp…

Triển vọng “cánh đồng 1 giống”

Từ hiệu quả thí điểm vụ mùa năm 2018, mô hình “cánh đồng 1 giống” được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với UBND huyện Ðiện Biên triển khai nhân rộng trong vụ đông xuân 2018 - 2019 và vụ mùa 2019. Mô hình nhằm nâng cao trình độ thâm canh lúa nước cho nông dân, tạo ra sản phẩm hàng hóa có chất lượng, từ đó tăng giá trị sản phẩm lúa gạo của địa phương.

 

canh-dong-1-giong.jpg

Nông dân đội 15, xã Thanh Xương (huyện Ðiện Biên) chăm sóc lúa mô hình “cánh đồng 1 giống” trong vụ mùa 2019. Ảnh: Báo Điện Biên Phủ

 

Mô hình “cánh đồng 1 giống” áp dụng đồng loạt các biện pháp kỹ thuật trên toàn diện tích ngay từ đầu vụ như: Cấy tập trung, bón phân, điều tiết nước, phun thuốc bảo vệ thực vật (BVTV)… Nhờ áp dụng máy cấy nên tỷ lệ lúa lẫn, cỏ dại giảm 80 - 90% so với diện tích ngoài mô hình; cây lúa sinh trưởng, phát triển đồng đều, tỷ lệ dảnh hữu hiệu cao, trỗ bông tập trung. Nông dân tham gia mô hình được hướng dẫn các biện pháp, kỹ thuật thu hoạch, sơ chế để thóc không bị lẫn tạp, đảm bảo yêu cầu của đơn vị thu mua. Do kiểm soát tốt việc sử dụng thuốc trừ sâu giai đoạn đầu vụ, phun trừ khi đến ngưỡng nên hạn chế ảnh hưởng của sâu bệnh đến năng suất cuối vụ. Việc áp dụng máy cấy trong mô hình đã góp phần kiểm soát tốt sinh vật gây hại như: Thời gian xuất hiện muộn, mức độ gây hại thấp hơn so với ngoài mô hình; xuất hiện theo lứa tập trung nên việc triển khai phun trừ được đồng loạt, hiệu quả phòng trừ cao hơn.

Ông Nguyễn Trọng Kính, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh cho biết: Mô hình “cánh đồng 1 giống” với mục đích áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp, bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân. Sản xuất 1 giống lúa trên những cánh đồng mẫu lớn lần đầu tiên được triển khai thành công, được xem là một giải pháp quan trọng góp phần tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, nâng cao giá trị thu nhập từ trồng lúa. Qua đó từng bước tiến tới cơ giới hóa các khâu sản xuất, ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học kỹ thuật và thu hút doanh nghiệp tham gia liên kết tiêu thụ sản phẩm tạo sự phát triển chuỗi trong sản xuất lúa gạo.

Vụ mùa 2019, mô hình “cánh đồng 1 giống” được triển khai trên diện tích 8,3ha, sử dụng giống lúa Nam Hương 4 với 38 hộ dân đội 15, xã Thanh Xương (huyện Ðiện Biên) tham gia. Kết thúc vụ sản xuất, năng suất lúa ước đạt 70 tạ/ha; lãi ròng ước đạt gần 21 triệu/ha (tăng hơn 12 triệu đồng/ha so với ruộng ngoài mô hình; chi phí sản xuất giảm hơn 9 triệu đồng/ha); giảm số lần phun thuốc bảo vệ thực vật từ 1,5 - 3 lần; lượng phân đạm sử dụng thấp hơn 33%; khắc phục tình trạng lúa lẫn, nâng cao chất lượng gạo.

Hòa Bình: Các doanh nghiệp đang tích cực thu mua, giải phóng vùng mía nguyên liệu

Theo thông tin từ Sở NN&PTNT, các doanh nghiệp, bao gồm Công ty CP đường mía Việt - Đài, Công ty CP T&T 159 chi nhánh Hòa Bình đang chủ động tổ chức thu mua mía nguyên liệu cho nông dân.

 

mia.jpg

Công ty CP đường mía Việt - Đài đang thu mua mía nguyên liệu cho nông dân xã Tân Mỹ (Lạc Sơn). Ảnh: Báo Hòa Bình

 

Trước đó, tình hình tiêu thụ mía nguyên liệu niên vụ 2019-2020 của tỉnh khó khăn. Cụ thể, diện tích dân tự trồng và diện tích trồng theo hợp đồng với khoảng 552,75 ha (chiếm 55,8% tổng diện tích cả tỉnh), sản lượng 25.900 tấn (chiếm 55,1% sản lượng cả tỉnh) gặp khó về tiêu thụ do Công ty CP mía đường Hòa Bình không tổ chức tiêu thụ được sản phẩm. 

Hai huyện Tân Lạc, Lạc Sơn đã tích cực phối hợp và tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp thu mua sản phẩm kịp thời vụ cho nông dân. Công ty CP đường mía Việt - Đài đang triển khai thu mua tại vùng trọng điểm mía nguyên liệu thuộc các xã Tân Mỹ, Ân Nghĩa (Lạc Sơn) với mức giá 650 đồng/kg. Một phần diện tích được Công ty CP T&T 159 thu mua làm thức ăn cho gia súc.

Với sự vào cuộc quyết liệt từ UBND tỉnh, Sở NN&PTNT, các địa phương vùng mía nguyên liệu và doanh nghiệp thu mua, diện tích mía nguyên liệu dự kiến sẽ được giải phóng tiêu thụ trước Tết Nguyên đán Canh Tý.

 

 

V.N (tổng hợp)
Ý kiến bạn đọc
Top