Công ty cổ phần Điền An, phối hợp với huyện Chư Pah, thí điểm liên kết chuỗi trồng sâm đương quy.
Để giúp người dân tiếp cận mô hình sản xuất nông nghiệp mới, xã Hà Tây (huyện Chư Pah, Gia Lai) phối hợp với Công ty cổ phần Điền An Gia Lai triển khai thí điểm, mô hình trồng sâm đương quy, theo chuỗi liên kết gắn với tiêu thụ sản phẩm.
Trồng sâm đương quy tại Chư Pah. Ảnh: Lê Nam
Hà Tây là xã đặc biệt khó khăn của Chư Pah, người DTTS chiếm trên 95%. Nhờ Nhà nước hỗ trợ chuyển đổi cây trồng, cải tạo vườn tạp, cộng với nỗ lực tự vươn lên, đời sống bà con từng bước nâng cao. Mỗi năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm hơn 5%.
Tháng 2-2020, từ nguồn XDNTM 2019-2020, Hà Tây phối hợp với Công ty Điền An, trồng sâm theo chuỗi, gắn tiêu thụ sản phẩm.
Mô hình triển khai cho 8 hộ/1sào/hộ, được Công ty hỗ trợ giống, phân bón và vôi để xử lý đất, chỉ phải bỏ công chăm sóc.
Anh Lê Đức Nhạn (làng Kon Băh) cho biết: Mô hình trồng sâm đương quy có giá trị kinh tế cao, nên gia đình đã đăng ký.
Sau khi trồng cho thấy, sâm đương quy phù hợp điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, nên phát triển khá tốt. Sau khi thu hoạch, nếu có hiệu quả, sẽ chủ động mở rộng diện tích.
Sâm đương quy là dược liệu quý, từ khi trồng đến thu hoạch khoảng 15-16 tháng. Nếu thời tiết thuận lợi, mỗi héc ta có thể cho 20-25 tấn sản phẩm.
Tuy nhiên, trồng sâm đương quy cũng đòi hỏi kỹ thuật rất kỹ, từ khâu xử lý đất đến chăm sóc để phòng ngừa bệnh. Nếu không xử lý kỹ, cây dễ bị bệnh thối nhũn, nhiễm khuẩn làm giảm năng suất, thậm chí mất trắng.
Ngoài ra, sâm đương quy rất phù hợp với khí hậu ẩm mát, có cây che bóng. Anh Phan Kưh (làng Kon Pơ Nang) cho hay: Đầu tháng 3-2020, tận dụng nguồn suối ở gần, đã trồng 1 sào sâm đương quy.
Ngoài giống, phân bón được Công ty cung cấp, anh còn đầu tư hệ thống tưới béc phun mưa. Đến nay, sâm đương quy của gia đình rất tốt.
Ông Trần Anh Hào-Phó Chủ tịch xã -cho biết: Từ trước, người dân chủ yếu dựa vào cây mì, bời lời, cao su và lúa nước. Song, do giá hàng nông sản giảm, đời sống người dân khó khăn.
Để giúp bà con tiếp cận mô hình mới, xã đã phối hợp cùng Công ty Điền An, sản xuất sâm theo chuỗi liên kết. Công ty cam kết thu mua sản phẩm theo giá thị trường. Nếu giá xuống thấp, vẫn đảm bảo thu mua 40.000 đồng/kg.
“Hiện, sâm đang phát triển ổn định, song, do là mô hình mới nên sau khi kết thúc, chúng tôi sẽ đánh giá hiệu quả kinh tế, và định hướng cụ thể về việc phát triển cây dược liệu”-ông Hào nhấn mạnh.
Nâng tầm vị thế cây vải chín sớm ở Đắk Lắk
Mặc dù mới phát triển rộ tại Đắk Lắk mười năm, nhưng với lợi thế chín sớm, cây vải đã mở ra hướng sản xuất mới cho nông dân. Song, vấn đề là làm sao để phát huy hiệu quả của cây vải.
Vườn vải của ông Khuyến xã Ea Sar
Năm nay, các hộ trồng vải Ea Sar (huyện Ea Kar) rất phấn khởi, vì cây vải được mùa, năng suất cao. Anh Lý Văn Thọ (thôn 2, xã Ea Sar), đang tất bật thu hoạch, sơ chế, đóng thùng để giao cho thương lái.
Mặc dù mới thu hoạch năm 2 nhưng vườn vải 300 gốc của anh đã cho 7,5 tấn, quả to, đều, ngọt, mọng; thương lái thu mua tận vườn với giá 30.000 đồng/kg.
Anh cho biết, dù giá bán vải thấp hơn so năm ngoái từ 10 - 20.000 đồng/kg, do dịch Covid-19, nhưng nhờ lợi thế vải chín sớm hơn phía Bắc chừng 1 tháng, nên lúc nào cũng được giá cao.
Năm 2010, ông Trần Văn Khuyến (xã Ea Sar) quyết định phá bỏ điều, ca cao, không hiệu quả, sang trồng 200 cây vải, sản lượng 6 – 7 tấn/năm.
Theo ông Khuyến, cây vải thích hợp thổ nhưỡng, khí hậu địa phương. Trồng vải cũng khá nhàn, chỉ vất vả, tốn kém khi đầu tư, nhưng có thể thu từ 20 - 30 năm.
“Lợi thế của cây vải chín sớm đã được khẳng định, chất lượng không thua kém vải thiều miền Bắc, nhưng giá bán luôn cao hơn, đầu ra thuận lợi”- ông Khuyến cho biết.
Xã Ea Sar hiện có 300 ha vải, trong đó 160 ha đã vào kỳ kinh doanh, năng suất trung bình 16 tấn/ha. Theo Phó Chủ tịch xã Ea Sar, Văn Đình Thìn, cây vải bắt đầu phát triển mạnh từ năm 2010.
Với lợi thế chín sớm, luôn được giá cao, đầu ra thuận lợi, nông dân thu 450 – 500 triệu đồng/ha/năm, cao gấp vài chục lần so cà phê. Để hỗ trợ chuyển đổi điều, cà phê kém hiệu quả, sang trồng vải, xã đã hỗ trợ cây giống cho 12 mô hình.
Phối hợp tập huấn về trồng, chăm sóc cây vải, tổ chức các hội nghị kết nối giữa chính quyền, nông dân, doanh nghiệp, tạo cơ hội tiêu thụ nông sản cho nông dân. Cây vải chín sớm đã giúp nhiều hộ thoát nghèo, làm giàu.
Tại huyện Krông Pắc, cây vải miền Bắc cũng được trồng thử nghiệm từ khá lâu, và nhiều hộ đã có quy mô lớn, để phát triển theo hướng hàng hóa.
Hiện, Krông Pắc có khoảng 40 ha vải, năng suất bình quân trên 10 tấn/ha, và đang mở rộng tại một số vùng phù hợp.
Song, để trồng thành công loại cây này, nông dân phải nắm rõ đặc tính của cây, nhằm có biện pháp chăm sóc phù hợp. Bởi chỉ cần thiếu sót một trong những yếu tố cần thiết, sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây vải.
Ví như vườn vải 600 cây của ông Vũ Trọng Luyến (TX. Buôn Hồ), năm nay chỉ có 200 cây cho quả, tổng sản lượng thu hoạch khoảng 6 tấn vải tươi, bình quân năng suất chỉ đạt 30 kg/cây.
Ông Luyến cho biết, do sơ suất trong kỹ thuật khoanh vỏ, để kích thích phân hóa mầm hoa, vườn vải đã chết 60 cây, số còn lại không cho thu hoạch. Qua đó cho thấy kỹ thuật khoanh vỏ cây vải hết sức quan trọng.
Bên cạnh đó, yếu tố nhiệt độ cũng liên quan mật thiết đến quá trình ra hoa đậu quả. Biên nhiệt độ ngày/ đêm chênh lệch càng lớn, thì sự tăng trưởng của vải càng tốt.
Thời kỳ phân hóa mầm hoa, cây vải phù hợp nhiệt độ dưới 130C, vì thế năm nào Đắk Lắk có mùa đông ít lạnh, thì cây vải ra hoa kém. Nhiệt độ thích hợp để cây vải thụ phấn là 18 - 240C.
Về nhu cầu dinh dưỡng, bón phân cho vải cũng rất cần thiết. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về cây vải chưa nhiều, nhiều vấn đề chưa được làm rõ.
Chẳng hạn, muốn có 100 kg quả trên chân đất nào đó, thì cần bao nhiêu phân bón, phân gì, loại nào? Và bón vào thời kỳ nào?... chưa được nghiên cứu. Vì thế nông dân chủ yếu chăm sóc qua kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, hay tìm hiểu qua mạng.
Khó khăn nữa là nhân giống, hiện, bà con thường sử dụng giống vải từ chiết cây, để giữ được đặc tính tốt của cây mẹ, năng suất cao.
Song, biện pháp này có hệ số nhân giống thấp; bộ rễ của giống cây vải chiết từ cành ăn nông (từ 0 – 60 cm), nên không thuận lợi trong mùa gió Tây Nguyên, cũng như khó khai thác nước và dinh dưỡng ở tầng thấp, cần phải đầu tư tưới tiêu đầy đủ.
Trong khi đó, cây giống vải phần lớn chưa được chứng nhận của các cơ quan chức năng, nên nông dân không đủ niềm tin để mở rộng.
Để nhân rộng diện tích cây vải, cần sự vào cuộc của cơ quan chức năng, nhà khoa học để nghiên cứu, về phát triển sản xuất vải trên những chân đất và tiểu khí hậu phù hợp.
Để phát huy cây vải, các nhà vườn đãvcanh tác theo hướng bền vững, sản xuất liên kết chuỗi. Huyện Ea Kar có diện tích vải lớn nhất (trên 300 ha, diện tích cho thu hoạch 200 ha, bình quân 3.000 tấn/năm), đã xây dựng được 15 ha VietGAP.
Huyện đã tổ chức hội thảo kết nối thương mại trong và ngoài tỉnh. Theo đó, đã có khá nhiều doanh nghiệp liên kết, để bao tiêu quả vải cho bà con.
Theo Sở NN-PTNT, gần đây, cây vải được nông dân lựa chọn để chuyển đổi trên vùng đất xấu, hoặc cà phê, tiêu kém năng suất, bước đầu đem lại hiệu quả cao, chủ yếu ở huyện Ea Kar, Krông Pắc, Krông Năng, M’Đrắk, thị xã Buôn Hồ…
Lợi thế lớn nhất của cây vải Đắk Lắk là luôn chín sớm hơn ở ngoài Bắc khoảng 1 tháng, do điều kiện khí hậu khác nhau. Quả vải Đắk Lắk đươc ưa chuộng bởi màu đỏ tươi, cùi mọng, hương thơm, ngọt thanh, đậm pha nhẹ vị chua dễ chịu, chất lượng không thua kém miền Bắc.
Vì vậy, thương lái thu mua giá cao. Hiện, quả vải là 1 trong 9 loại trái cây được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Tuy nhiên, quả tươi nhập vào nước này, bắt buộc phải truy xuất nguồn gốc, mã vùng trồng, cơ sở đóng gói.
Để có cơ sở cho Cục Bảo vệ thực vật xem xét cấp mã vùng trồng cho quả vải Đắk Lắk để xuất khẩu, Sở NN-PTNT đã hướng dẫn các huyện trọng điểm vải rà soát, thống kê diện tích.
Bà Nguyễn Thị Xuân Hương, Giám đốc Công ty Cổ phần Sản xuất dịch vụ nông nghiệp Hương Cao Nguyên (tại Đắk Lắk) cho biết, công ty đang kết nối, đặt hàng tại vườn, số lượng trên 500 tấn, để phân phối thị trường trong nước.
Hiện thị trường vải chín sớm khá ổn, mặc dù năm nay bị ảnh hưởng dịch Covid-19, giá giảm nhiều so mọi năm, nhưng “cầu” vẫn khá cao. Vì vậy, Công ty đang phối hợp với Sở NN-PTNT, xây dựng mã vùng trồng cho cây vải Đắk Lắk, tiến tới xuất khẩu.
Kon Tum: Quyết tâm làm giàu của A Nga
Chàng trai A Nga 27 tuổi, xã Đăk Tăng, huyện Kon Plông, tốt nghiệp Khoa Luật, Trường Đại học Đà Lạt, nhưng lại quyết tâm về quê trồng trọt, chăn nuôi.
A Nga bên vườn bí. Ảnh: TVP
A Nga cho biết, tốt nghiệp đại học năm 2017, anh về quê tu chí làm ăn. Vốn liếng của anh chính là sức lao động và gần 1ha đất do cha mẹ để lại.
Qua Chương trình khởi nghiệp do Huyện đoàn phát động, A Nga vay 100 triệu, của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT để làm kinh tế trang trại. Theo A Nga, đây là hướng đi phù hợp, vừa tận dụng đất đai, vừa phát huy kiến thức đã học.
A Nga kể, năm 2018, anh bắt tay cải tạo vườn nhà. Trong đó, trồng 2 sào cây hồng đẳng sâm, còn lại trồng các loại rau. Qua một năm chăm sóc đúng kỹ thuật, anh bán cả lá sâm và củ sâm được trên 40 triệu đồng.
Thấy anh cần cù, lại có kiến thức, Phòng Nông nghiệp huyện hỗ trợ anh mô hình trồng bí Nhật, hỗ trợ một nhà lồng 300m2, trị giá 35 triệu đồng.
Trong đó, có đầy đủ hệ thống tưới nhỏ giọt; đồng thời, Công ty Vicomat Măng Đen, hỗ trợ giống bí, kỹ thuật, phân bón và cam kết thu mua toàn bộ sản phẩm.
Đến nay, sau hơn 4 tháng, vườn bí của anh đã xanh tốt, trĩu quả. Theo đánh giá của cán bộ huyện, thời vụ trồng bí Nhật 3,5 tháng, có thể trồng 3 vụ/năm; đây là vụ đầu tiên, nên thời gian có dài hơn, nhưng sẽ đạt trên 1 tấn, với giá 22 ngàn đồng/kg, chắc chắn thu 22 triệu đồng/vụ.
Tiền vay ngân hàng, tôi trích ra 50 triệu đồng, mua 4 con bò sinh sản, heo, gà, cá, trồng rau, nên có cuộc sống khá” - A Nga vui vẻ nói.
A Nga cho biết, từ tháng 5-7 tới, anh sẽ thu hoạch cây hồng đẳng sâm, bí Nhật Bản, sẽ được trên 60 triệu đồng. Anh sẽ mở rộng diện tích trồng bí Nhật thêm 300m2 và 1 sào cây hồng đẳng sâm, để bán cây giống, phát triển cây dược liệu.
Như vậy, chỉ qua hai vụ trồng hồng đẳng sâm, 1 vụ bí Nhật và 4 con bò sinh sản, A Nga thu trên 100 triệu đồng. Nhưng đáng mừng nhất là A Nga đang quyết tâm làm giàu.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.